Giữa miền quê Thanh Oai, Hà Nội, có một ngôi làng hơn ba thế kỷ vẫn miệt mài gìn giữ nghề làm nón lá – làng Chuông. Từ những bàn tay khéo léo của người phụ nữ, từng chiếc nón trắng tinh khôi ra đời, mang theo hồn quê, nét duyên và vẻ đẹp thanh tao của người Việt, như nhịp nối dịu dàng giữa quá khứ và hiện tại.
Nón làng Chuông hàng trăm năm nay còn lưu giữ hồn quê. Ảnh: Internet
Dáng nón và hồn nghề
Từ bao đời nay, người dân làng Chuông vẫn tự hào gọi nghề làm nón là “nghề của đôi tay và tấm lòng”. Không ai nhớ rõ nghề có từ khi nào, chỉ biết rằng qua lời kể của các bậc cao niên, tổ nghề là một người phụ nữ trong vùng, mang kỹ thuật chằm nón về truyền lại cho dân làng. Từ đó, những mái nhà nhỏ nằm dọc triền sông Đáy quanh năm vang lên tiếng róc rách của kim chỉ, tiếng lách cách khung tre, hòa cùng khói bếp mộc mạc – âm thanh thân thuộc của một làng nghề hơn ba trăm năm tuổi.
Để làm ra một chiếc nón Chuông đẹp, người thợ phải trải qua hàng chục công đoạn tỉ mỉ: từ chọn lá cọ Phú Thọ, phơi sương cho lá mềm, là cho phẳng, đến vót nan tre, uốn khung và chằm nón bằng những đường kim đều tăm tắp. Công đoạn nào cũng đòi hỏi sự kiên nhẫn và đôi mắt tinh tường. Người thợ không chỉ làm bằng tay, mà còn bằng cảm nhận và kinh nghiệm được tích lũy qua bao năm tháng. Một chiếc nón đẹp phải có dáng thanh, chóp nhỏ, đường chỉ khít đều, mặt lá mịn màng và sáng bóng.
Cái duyên riêng của nón Chuông không chỉ nằm ở hình dáng thanh thoát mà còn ở “hồn nghề” – ở tình yêu quê, ở sự bền bỉ của những người mẹ, người chị ngày ngày cặm cụi chằm từng đường kim, sợi chỉ. Nhiều người ví, chiếc nón Chuông là “nét duyên của người con gái Việt”, bởi nó vừa giản dị, vừa đằm thắm, vừa ẩn chứa sự kiên nhẫn và khéo léo – phẩm chất vốn được coi là vẻ đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
Buổi trưa hè, dưới mái hiên, những người phụ nữ làng Chuông ngồi thành hàng, tay khâu nón, miệng trò chuyện rì rầm. Ánh nắng xuyên qua tán lá, phản chiếu lên những vành nón trắng phau như sóng lúa. Tiếng kim chằm đều đặn vang lên, hòa cùng nhịp gió và tiếng chim, như nhịp thở của làng nghề – bền bỉ, dung dị mà chan chứa tình quê.
Nón làng Chuông được làm trau chuốt tới từng đường kim mũi chỉ. Ảnh: qdnd.vn
Phiên chợ Chuông – nét văn hóa độc đáo
Nếu nghề làm nón là linh hồn của làng Chuông, thì chợ Chuông lại là nhịp sống, là nơi giữ cho mạch nghề ấy luôn chảy đều qua năm tháng. Chợ họp theo phiên, vào các ngày 4, 10, 14, 20, 24 và 30 âm lịch hằng tháng. Mỗi sớm phiên chợ, khi sương vẫn còn giăng nhẹ trên những rặng tre, con đường làng đã tấp nập người gánh nón, người gùi lá, người khênh khung tre. Cả làng như bừng dậy trong tiếng rao, tiếng chào, tiếng cười, hòa cùng sắc trắng tinh khôi của hàng trăm chiếc nón xếp cao thành từng chồng – một khung cảnh vừa nhộn nhịp, vừa nên thơ.
Chợ Chuông không chỉ là nơi buôn bán mà còn là nơi gặp gỡ, trao truyền nghề nghiệp. Ở đó, người thợ trẻ tìm mua lá đẹp, khung tốt; người già chia sẻ kinh nghiệm chọn chỉ, phơi lá; khách từ phương xa tìm về không chỉ để mua nón, mà còn để nhìn thấy một làng nghề vẫn còn “sống”, vẫn còn giữ được nếp cũ giữa guồng quay hiện đại. Phiên chợ ấy dường như không chỉ trao đổi hàng hóa, mà còn trao đổi cả tình người, tình nghề – thứ tài sản vô hình nuôi dưỡng làng Chuông bao thế hệ.
Giữa những dãy hàng nối dài, hình ảnh những người phụ nữ áo nâu, đội khăn, nhẹ nhàng xếp từng chiếc nón, cười hiền với khách – trở thành điểm nhấn dịu dàng của chợ. Với họ, mỗi chiếc nón không chỉ là sản phẩm, mà còn là niềm tự hào, là giọt mồ hôi và ký ức quê hương. Có người từng nói rằng: “Đi chợ Chuông không chỉ là mua nón, mà là mua một phần hồn Việt.”
Ngày nay, chợ Chuông đã trở thành điểm đến hấp dẫn với du khách, nhiếp ảnh gia, những người yêu văn hóa truyền thống. Trong ánh nắng ban mai, giữa tiếng rao rộn rã, từng vành nón khẽ nghiêng soi bóng xuống mặt đường – như chiếc gương phản chiếu vẻ đẹp thanh tao, bền bỉ của làng nghề, của con người đất Việt.
Phiên chợ Chuông đông đúc, nhộn nhịp từ rất sớm. Ảnh: vov.vn
Giữ nghề giữa nhịp sống mới
Giữa những biến đổi không ngừng của đời sống hiện đại, làng Chuông vẫn kiên trì giữ lấy nghề làm nón như một phần máu thịt. Dẫu có lúc thăng trầm, khi nghề thủ công truyền thống phải đối diện với sự cạnh tranh của hàng công nghiệp, người làng vẫn không nỡ để lửa nghề lụi tàn. Với họ, làm nón không chỉ để mưu sinh mà còn là cách giữ lấy gốc gác, giữ lấy nếp sống thanh nhã, thuần hậu đã được ông cha gửi gắm trong từng nếp lá, đường kim.
Bước chân vào làng hôm nay, dễ dàng bắt gặp hình ảnh những cụ già vẫn miệt mài chằm nón bên hiên nhà, tay run run nhưng ánh mắt vẫn sáng lên niềm say mê. Kế bên là lớp trẻ, những cô gái, chàng trai thế hệ 8X, 9X, thậm chí Gen Z – tuy không còn sống hoàn toàn bằng nghề nhưng vẫn dành thời gian phụ giúp cha mẹ, học cách chằm nón, buôn nón qua mạng, mở tour trải nghiệm cho du khách. Nghề xưa được “truyền lửa” bằng những cách rất mới, vừa mộc mạc, vừa sáng tạo.
Đáng quý hơn, chính quyền địa phương và người dân đang cùng chung tay để gìn giữ thương hiệu “nón Chuông” như một sản phẩm văn hóa đặc trưng của Hà Nội. Các lớp dạy nghề miễn phí, các hội chợ làng nghề, các dự án du lịch cộng đồng được tổ chức thường xuyên, giúp nón làng Chuông có thêm cơ hội lan tỏa. Một số nghệ nhân còn thử nghiệm kết hợp chất liệu, tạo dáng nón trang trí, nón nghệ thuật, hay làm quà lưu niệm xuất khẩu – đưa hình ảnh chiếc nón truyền thống bước ra khỏi biên giới làng quê.
Tuy vậy, con đường giữ nghề không dễ. Nguồn nguyên liệu khan hiếm, thu nhập thấp, lớp trẻ rời làng đi học, đi làm… khiến không ít người lo rằng một ngày nào đó, tiếng “chát chát” của kim nón sẽ chỉ còn vang lên trong ký ức. Nhưng rồi, mỗi dịp hội làng hay phiên chợ, khi thấy những chồng nón trắng lại nghiêng nghiêng dưới nắng, người làng Chuông lại thêm tin rằng nghề vẫn còn đó – vì còn người yêu, còn người giữ.
Nón làng Chuông hôm nay không chỉ là sản phẩm thủ công, mà đã trở thành biểu tượng của sự bền bỉ, khéo léo và lòng thủy chung với nghề. Giữa nhịp sống mới, giữ nghề không chỉ là gìn giữ một di sản vật thể, mà còn là gìn giữ tinh thần văn hóa Việt: giản dị, bền gan và luôn biết tìm cách thích ứng để truyền thống được tiếp nối qua mỗi thế hệ.
Làng Chuông đã trở thành một điểm đặc biệt thu hút với lịch sử lâu dài và nghệ thuật làm nón lá truyền thống. Ảnh: Internet
Từ những sợi cước nhỏ, vành tre mảnh, lá cọ khô, người làng Chuông đã tạo nên chiếc nón không chỉ để che mưa nắng, mà còn để gìn giữ một nét duyên Việt giữa dòng chảy thời gian. Trải qua bao biến thiên, chiếc nón ấy vẫn giữ nguyên dáng vẻ thanh tao, mộc mạc – như chính tâm hồn người thợ nơi đây.
Giữa nhịp sống hiện đại, nón Chuông vẫn nghiêng bóng trên những con phố Hà Nội, trên vai mẹ, trên tay cô gái trẻ, hay trong các chương trình văn hóa mang đậm hồn Việt. Đó là minh chứng cho sức sống bền bỉ của một làng nghề – nơi truyền thống và đổi mới cùng song hành. Giữ nghề hôm nay không chỉ là giữ lấy một sản phẩm, mà là giữ lấy bản sắc – giữ cho tiếng “chát chát” của kim nón vẫn ngân vang giữa đời thường, như khúc nhạc dịu dàng về tình yêu quê hương, về bàn tay người Việt khéo léo và thủy chung với cội nguồn.