Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đã thể hiện nhiều điểm mới về đối ngoại và quan hệ quốc tế trong bối cảnh mới. Trung ương chủ trương tiếp tục phát huy đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế; trong đó đặt nhiệm vụ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngang hàng với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.

Dự báo tình hình thế giới và khu vực đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Trước khi đi vào các định hướng, giải pháp tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, Dự thảo đã đi vào nhận định, đánh giá chi tiết, đa chiều, toàn diện về tình hình thế giới và khu vực đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Một là, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ đứng trước nhiều trở ngại, thách thức; chủ nghĩa đa phương gặp nhiều thách thức hơn giai đoạn trước nhưng vẫn là xu thế phát triển. Hai là, xu thế toàn cầu hoá và sự bùng nổ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư… chuyển đổi số, chuyển đổi xanh… và các liên kết kinh tế mới ngày càng được chú trọng, trở thành xu thế chủ đạo. Ba là, các nước lớn ngày càng gia tăng cạnh tranh chiến lược và liên kết tạo ảnh hưởng… Biểu hiện phân tách, phân mảng, phân cực, nguy cơ xung đột cục bộ, chiến tranh ủy nhiệm ngày càng lớn. Bốn là, những chuyển biến mạnh mẽ về văn hóa - xã hội diễn ra trên quy mô toàn cầu. Năm là, những vấn đề toàn cầu, an ninh phi truyền thống tiếp tục diễn biến phức tạp. Sáu là, châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương là khu vực trung tâm hội tụ lợi ích chiến lược, cạnh tranh nước lớn, có vị trí, tầm quan trọng đối với phát triển và an ninh toàn cầu. Bảy là, khu vực Đông Nam Á tiếp tục phát huy vai trò trung tâm hợp tác, thúc đẩy liên kết khu vực Đông Á, châu Á - Thái Bình Dương.

Có thể thấy, những đặc điểm của tình hình cục diện thế giới, khu vực được dự báo trong Dự thảo Văn kiện đã bao quát trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị - an ninh, văn hoá - xã hội, khoa học công nghệ… Những dự báo xu hướng phát triển của tình hình thế giới cho thấy trong thời gian tới Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để bứt phá phát triển, song cũng phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn khi môi trường quốc tế có nhiều rủi ro, biến động khó lường.

Nhiệm vụ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngang hàng với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh

Việc Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV lần đầu tiên xác định công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế ngang hàng với nhiệm vụ quốc phòng và an ninh với tư cách là “nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên” phản ánh sự điều chỉnh tư duy chiến lược quan trọng của Đảng trước biến động địa chính trị khu vực và thế giới. Quan điểm này khẳng định vai trò thiết yếu của đối ngoại trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, trở thành yêu cầu xuyên suốt trong giai đoạn mới. Nếu trước đây, đối ngoại chỉ được đề cập như một nhiệm vụ quan trọng, thì nay đối ngoại đã trở thành trụ cột chiến lược trong tổng thể sức mạnh quốc gia, là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, lấy ngoại giao Nhà nước làm nòng cốt.

Đồng thời, mô hình phối hợp “ba trụ cột”: quốc phòng - an ninh - đối ngoại được nhấn mạnh nhằm tăng cường cơ chế liên ngành, nâng cao hiệu quả triển khai chính sách và đào tạo đội ngũ chuyên gia trong các lĩnh vực ngoại giao kinh tế, văn hoá, công nghệ… Điều này cho phép Việt Nam chủ động hơn trong xử lý thách thức và tận dụng cơ hội của hội nhập quốc tế.

Việc nâng đối ngoại, hội nhập quốc tế lên thành nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên không chỉ là thay đổi về tư duy mà còn là bước đi chiến lược nhằm gia tăng sức mạnh mềm, nâng cao vị thế đất nước và góp phần bảo đảm phát triển bền vững trong môi trường cạnh tranh toàn cầu ngày càng quyết liệt.

Phát triển đối ngoại trong kỷ nguyên mới, tương xứng với tầm vóc lịch sử, văn hoá và vị thế của đất nước

Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV nêu rõ yêu cầu phát triển nền đối ngoại “tương xứng với tầm vóc lịch sử, văn hoá và vị thế của đất nước”, cho thấy sự điều chỉnh quan trọng trong định hướng chiến lược của Đảng. Điểm mới không chỉ nằm ở việc kế thừa đường lối chủ động, tích cực hội nhập quốc tế từ các nhiệm kỳ trước mà còn ở chỗ nhấn mạnh tầm cao mới trong tư duy và mục tiêu đối ngoại phù hợp với vị thế Việt Nam ngày càng tăng trên trường quốc tế.

Thứ nhất, đối ngoại được nhìn nhận không đơn thuần là công cụ phục vụ bảo đảm an niquốc gia hay mở rộng hợp tác kinh tế, mà còn là phương tiện khẳng định bản lĩnh, bản sắc và hình ảnh của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế. Điều này gắn với việc phát huy chiều sâu văn hóa - lịch sử như một nguồn lực tạo dựng niềm tin, sự tôn trọng và ảnh hưởng đối ngoại, qua đó gia tăng sức mạnh mềm và uy tín quốc gia.

Thứ hai, định hướng mới mở rộng phạm vi và mục tiêu của đối ngoại vượt lên trên tư duy truyền thống chỉ tập trung “duy trì hòa bình, hợp tác và phát triển”. Việc đặt ra yêu cầu tương xứng với vị thế hiện tại cho thấy Việt Nam không chỉ tham gia mà còn có khả năng đóng góp và định hình môi trường quốc tế.

Thứ ba, trong kỷ nguyên phát triển mới, đối ngoại phải đóng vai trò kiến tạo không gian phát triển, chủ động mở rộng cơ hội cho hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững, đồng thời thúc đẩy nâng cao vị thế đất nước trong hệ thống chính trị và kinh tế toàn cầu. Với tiềm lực và uy tín quốc tế gia tăng, Việt Nam được khẳng định là một đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong việc thúc đẩy hòa bình, ổn định và hợp tác khu vực cũng như thế giới.

Mặt khác, Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV cũng lần đầu tiên nêu rõ yêu cầu đối ngoại phải tương xứng với tầm vóc phát triển đất nước. Đối ngoại không chỉ hỗ trợ kinh tế mà còn đi tiên phong trong các lĩnh vực công nghệ, tri thức, văn hoá. Chủ động xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với 3 trụ cột (Đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân), vận hành như một “hệ sinh thái đối ngoại” thống nhất, đồng bộ. Kết nối chặt chẽ ngoại giao chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng, an ninh, khoa học, công nghệ, chuyển đổi số. Dự thảo yêu cầu cao hơn đối với công tác đối ngoại: Không chỉ “nâng tầm” mà phải “tương xứng với tầm vóc”; “không chỉ hội nhập sâu” mà còn “phát huy sức mạnh văn hoá, lịch sử, giá trị Việt Nam” để gia tăng ảnh hưởng quốc tế; không chỉ là đối ngoại “vì Việt Nam” mà còn “đóng góp cho hoà bình, phát triển chung của nhân loại”.

Ngoài ra, lần đầu tiên, vấn đề tự chủ chiến lược được đề cập đến như một “điểm nhấn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, phản ánh bước phát triển mới trong tư duy lãnh đạo của Đảng cũng như phù hợp với xu thế quốc tế trong bối cảnh thế giới biến động nhanh, phức tạp, khó lường”. Vấn đề tự chủ chiến lược được nhắc đến trong các Dự thảo văn kiện có nội hàm theo hướng “tăng cường nội lực, phát huy sức mạnh tổng hợp” của dân tộc; thể hiện một bước phát triển mới trong tầm nhìn của Đảng về độc lập, tự chủ quốc gia trong thời đại toàn cầu hóa đầy biến động. Đây không chỉ là một khái niệm mới, mà là biểu hiện của tầm vóc tư duy lãnh đạo trong thời kỳ hội nhập toàn diện và cạnh tranh chiến lược gay gắt - nơi mỗi quốc gia chỉ có thể đứng vững nếu biết chủ động định vị vị thế, làm chủ vận mệnh phát triển của mình. Theo quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, tự chủ chiến lược không chỉ là giữ vững độc lập chính trị hay bảo đảm an ninh quốc phòng, mà còn là năng lực nội sinh về kinh tế, khoa học, công nghệ và văn hóa - những yếu tố nền tảng để đất nước không bị động trước biến động quốc tế.

Như vậy, trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV, nội dung về đối ngoại được đề cập đến một cách toàn diện hơn, nhấn mạnh đến sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, trong đó nguồn lực bên trong là quyết định và nguồn lực bên ngoài đóng vai trò hỗ trợ. Trong thời gian tới, cần phải tiếp tục xây dựng các quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược một cách hiệu quả, phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đồng thời cần tiếp tục phát triển các quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng, giải quyết các vấn đề biên giới trên cơ sở kế thừa truyền thống hoà hiếu của dân tộc, với những bài học kinh nghiệm từ lịch sử “dĩ bất biến ứng vạn biến”, đảm bảo mục tiêu lợi ích quốc gia dân tộc là trên hết.