(VNTV). Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân". Đây là luận cứ cơ bản, vững chắc để phản bác các quan điểm sai trái, đồng thời khẳng định bản chất, giá trị phổ quát và những đặc trưng ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nhà nước pháp quyền: Di sản chung của nhân loại, không phải độc quyền của chủ nghĩa tư bản

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, khái niệm Nhà nước pháp quyền đã trở thành một giá trị phổ biến, được nhiều quốc gia trên thế giới hướng tới. Tuy nhiên, cùng với xu thế này, xuất hiện không ít luận điệu sai trái, phủ nhận tính pháp quyền của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những luận điệu này không chỉ mang tính xuyên tạc mà còn nhằm mục đích chống phá, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam

Một trong những luận điệu sai trái phổ biến nhất là khẳng định nhà nước pháp quyền là sản phẩm riêng của giai cấp tư sản, chỉ xuất hiện cùng với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Luận điệu trên đã bỏ qua một thực tế lịch sử quan trọng: tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã được hình thành và phát triển từ rất sớm trong lịch sử tư tưởng nhân loại, từ thời cổ đại đến nay, có trước cả sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.

Ngay từ thời kỳ cổ đại ở phương Tây, các triết gia như Platon và Aristotle đã đề cao vai trò tối thượng của luật pháp trong việc điều hành xã hội, chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của người cầm quyền. Platon nhấn mạnh: "Ở đâu luật pháp dưới trướng nhà cầm quyền thì sự sụp đổ của quốc gia là không xa; nhưng ở đâu mà luật pháp đứng trên chính quyền thì tình hình có nhiều hứa hẹn và dân chúng vui hưởng trọn vẹn những ân sủng của Thượng đế ban cho quốc gia." Aristotle cũng khẳng định rành mạch: "Luật pháp nên cai trị." Cùng thời điểm đó, ở phương Đông, Hàn Phi với tư tưởng "dĩ pháp trị quốc" (trị nước bằng pháp luật) và nguyên tắc "pháp bất a quý" (luật pháp không phân biệt sang hèn) cũng đã đặt nền móng cho ý niệm về một nhà nước cai trị bằng luật pháp công bằng.

Tiến đến thời kỳ Phục hưng và Khai sáng, Montesquieu đã phát triển lý thuyết về sự phân chia và chế ước quyền lực nhà nước (tam quyền phân lập) nhằm ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực. Các học giả Đức vào thế kỷ XVIII - XIX cũng quan niệm nhà nước pháp quyền là nơi quyền lực nhà nước bị giới hạn để bảo vệ công dân khỏi sự tùy tiện, quyền tự do dân sự được đảm bảo bằng pháp luật và hệ thống tòa án. Luật gia người Anh Albert Venn Dicey (1835-1922) đã đưa ra ba nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền, bao gồm: không ai có thể bị trừng phạt nếu không có hành vi trái pháp luật được chứng minh tại tòa; mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; và nguyên tắc pháp quyền bao gồm kết quả của các quyết định tư pháp xác định quyền của cá nhân.

Những tư tưởng này, dù xuất hiện ở các thời kỳ và nền văn hóa khác nhau, đều hướng tới những giá trị cốt lõi chung của nhà nước pháp quyền. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Mọi hoạt động của nhà nước đều phải dựa trên Hiến pháp và pháp luật, với hệ thống pháp luật không ngừng được hoàn thiện. Quyền con người luôn được nhà nước bảo vệ và đảm bảo bằng hệ thống pháp luật. Phương thức tổ chức quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) phải đảm bảo chống lộng quyền, lạm quyền, tập quyền, với sự độc lập của quyền tư pháp. Nhà nước hoạt động công khai, minh bạch, có nghĩa vụ và trách nhiệm trước công dân.

Như vậy, tư tưởng nhà nước pháp quyền là một giá trị phổ quát, là kết tinh trí tuệ của nhân loại qua hàng ngàn năm, chứ không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. Việc các nhà nước tư bản chủ nghĩa là những nước đầu tiên hiện thực hóa thành công mô hình nhà nước được tổ chức và hoạt động theo những giá trị phổ biến này không có nghĩa là họ độc quyền khái niệm. Mọi quốc gia, dân tộc đều có quyền thụ hưởng và xây dựng nhà nước pháp quyền theo đặc thù của mình.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Kế thừa, phát triển và tính ưu việt

Việt Nam xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là một sự lựa chọn chiến lược, dựa trên sự kế thừa có chọn lọc những giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền thế giới, đồng thời phát triển những giá trị đặc thù riêng, phù hợp với bản chất, điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam. Những đặc trưng này không chỉ đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền nói chung mà còn thể hiện tính ưu việt rõ rệt của mô hình xã hội chủ nghĩa.

Tám đặc trưng nổi bật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay được Nghị quyết số 27-NQ/TW (năm 2022) chỉ rõ, bao gồm: Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; Độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;  Tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

Sự phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực Nhà nước trong mô hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam là điểm khác biệt quan trọng so với mô hình "tam quyền phân lập". Quyền lực thống nhất ở nhân dân, không phải là sự đối trọng hay kìm hãm lẫn nhau mà là sự phối hợp để phục vụ nhân dân tốt nhất.

Với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng trên nền tảng chính trị vững chắc, khác biệt với các nhà nước đa đảng. Đảng lãnh đạo toàn diện, xuyên suốt từ quá trình xây dựng Hiến pháp, pháp luật đến tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước. "Điều quan trọng ở đây không phải là việc một đảng hay đa đảng cầm quyền và lãnh đạo, mà đảng đó đại diện cho ai, mang bản chất gì và phục vụ lợi ích cho ai." Đảng Cộng sản Việt Nam đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam. Điều này đảm bảo tính nhất quán, hiệu quả trong việc thực hiện mục tiêu phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Về phương thức tổ chức quyền lực nhà nước, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dựa trên nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất (thống nhất ở nhân dân), có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Khác với "tam quyền phân lập" nhằm tạo đối trọng, mô hình của Việt Nam hướng tới sự cộng hưởng sức mạnh để phục vụ nhân dân. Cơ chế kiểm soát quyền lực bao gồm cả kiểm soát bên trong giữa các cơ quan nhà nước và kiểm soát bên ngoài với sự tham gia của nhân dân – chủ thể tối cao của quyền lực.

Ngoài ra, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là một đặc trưng riêng có. Mô hình này không chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà luôn gắn kết kinh tế với xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này thể hiện sự ưu việt trong việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội, một thách thức lớn mà nhiều quốc gia tư bản chủ nghĩa gặp phải.

Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quá trình không ngừng nghỉ, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Thành tựu đổi mới của Việt Nam trong những năm qua đã chứng minh tính đúng đắn và hiệu quả của mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mô hình này không chỉ đạt được những tiến bộ vượt bậc về kinh tế mà còn giải quyết tốt hơn nhiều vấn đề xã hội so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển.

Bằng việc hiểu rõ những giá trị phổ quát của nhà nước pháp quyền và những đặc trưng riêng có, ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta có đủ luận cứ khoa học và thực tiễn để phản bác mọi luận điệu sai trái, góp phần củng cố niềm tin và thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh.