Từ năm 1975, đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất và đổi mới. Kỷ nguyên này kéo dài 50 năm, từ năm 1975 đến năm 2025. Đảng đã lãnh đạo dân tộc ta vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ của đất nước đầy vết thương chiến tranh, bị bao vây cấm vận và bị xâm lược ở hai đầu biên giới, tiến hành công cuộc đổi mới và đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt

Đường lối lãnh đạo kháng chiến đúng đắn, độc lập, tự chủ của Đảng đã lãnh đạo nhân dân làm nên kỳ tích “kết thúc vẻ vang cuộc chiến tranh yêu nước lâu dài nhất, khó khăn nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta. Chúng ta chào mừng Tổ quốc vinh quang của chúng ta từ nay vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài, vĩnh viễn thoát khỏi hoạ chia cắt, chào mừng non sông gấm vóc Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, từ nay hoàn toàn độc lập, tự do và vĩnh viễn độc lập, tự do… Chúng ta chào mừng kỷ nguyên mới trong lịch sử 4000 năm của dân tộc: kỷ nguyên phát triển rực rỡ của nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, kỷ nguyên nhân dân lao động hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình, đồng tâm hiệp lực xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mình và cho muôn đời con cháu mai sau”[1].

Giành độc lập, tự do, hoà bình, thống nhất đất nước đã khó, bảo vệ và dựng xây đất nước giàu mạnh lại càng khó hơn. Đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, thống nhất và đổi mới với nhiệm vụ trung tâm của Đảng là lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Dấu ấn của Đảng thể hiện trên một số phương diện sau:

Đột phá về tư duy lý luận và nhận thức thực tiễn trong qúa trình “tìm đường” đổi mới

Những năm 1975-1986, do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, việc đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng trở thành yêu cầu bức thiết, sống còn của Đảng. Vai trò, sự lãnh đạo của Đảng giai đoạn này thể hiện ở những chủ trương, quyết sách mang tính đột phá

Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (8/1979), với hai Nghị quyết về: Sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách, Đảng đã có những điều chỉnh mang tính đột phá trong tư duy kinh tế và đường lối phát triển kinh tế (chủ trương 5 thành phần kinh tế ở miền Nam, kết hợp kế hoạch với thị trường, điều chỉnh cơ chế giá cả, phân phối và lưu thông, cho phép liên doanh, liên kết để phát triển sản xuất…), mở đầu cho một loạt biện pháp và chính sách kinh tế tiếp sau của Nhà nước. Hội nghị Trung ương 6 như một luồng gió mới, kích thích sự năng động, sáng tạo của các ngành, các địa phương trong việc “phá rào” tìm kiếm giải pháp tháo gỡ ách tắc trong sản xuất, lưu thông để phát triển.

Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6/1985), bàn về vấn đề giá-lương-tiền, bước đổi mới tư duy trên lĩnh vực phân phối, lưu thông. Đảng chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, xoá bỏ cơ chế cung cấp hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sang hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, chuyển hoạt động của ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh. Điểm đột phá mấu chốt ở đây là sự thừa nhận nền kinh tế hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên, trong triển khai thực hiện không thành công, nhưng thực tiễn đó đã đặt toàn bộ nền kinh tế bao cấp vào tình thế không thể lùi bước, không thể tiếp tục khắc phục bằng những giải pháp chắp vá, tình huống mà buộc phải tìm cách đổi mới toàn diện, đồng bộ. Đó là một cơ sở, tiền đề để Đảng đi đến đổi mới toàn diện tại Đại hội VI.

Hội nghị Bộ Chính trị (8/1986) kết luận một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế. Trong đó, về cơ cấu kinh tế, xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc. Xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cơ chế quản lý kinh tế phải lấy kế hoạch là trung tâm, sử dụng đúng quan hệ hàng hoá-tiền tệ, xoá bỏ cơ chế tập trung bao cấp.

Ba bước đột phá trên thực chất là quá trình Đảng phát triển nhận thức tư duy lý luận, thực tiễn, đổi mới từng phần để đi tới đổi mới toàn diện, quyết liệt những năm sau đó.

45 nam chien tranh bien gioi tay nam lich su da noi len su that chinh nghia hinh anh 1

Bộ đội Việt Nam đánh bại quân Pol pot xâm lược và hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quốc tế cao cả đối với nhân dân Campuchia (Ảnh tư liệu)

Lãnh đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc ở biên giới phía Tây Nam và phía Bắc

Thực tiễn những gì đã diễn ra khẳng định đây là hai cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống lại sự xâm lược biên giới lãnh thổ Tổ quốc ở phía Tây Nam và phía Bắc. Ở biên giới phía Tây Nam, Việt Nam chống lại sự tấn công của nhà nước Campuchia Dân chủ do tập đoàn Pôn Pốt - Iêng- Xari cầm đầu (1975 - 31/12/1978). Ở biên giới phía Bắc, Việt Nam chống lại sự xâm chiếm của Trung Quốc, đỉnh điểm là từ 17/2 đến 16/3/1979, nhưng thực tế thì phải đến 1989, cuộc chiến mới thực sự kết thúc. Hai cuộc chiến đấu thực sự khó khăn với nhân dân Việt Nam cũng như sự lãnh đạo của Đảng vì đất nước, con người Việt Nam phải trực tiếp chiến đấu với những người từng là bạn, là anh em, là người đồng chí, người láng giềng gần gũi.

Song, dù trong bối cảnh đất nước vô cùng khó khăn, nhưng với niềm tin chính nghĩa, quyết tâm bảo vệ từng tấc đất biên cương của Tổ quốc thiêng liêng, truyền thống nhân văn, hoà hiếu, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã kiên cường chiến đấu và chiến thắng. Đồng thời thực hiện xuất sắc nghĩa vụ quốc tế, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng, hồi sinh đất nước. Đó là một dấu ấn đặc biệt, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ của Đảng, ý chí kiên cường, quật khởi của nhân dân và truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Đối diện khủng hoảng, thẳng thắn thừa nhận sai lầm và dũng cảm đổi mới

Đảng đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, dám thay đổi để bứt phá đi lên. Diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) chỉ rõ: “Mười năm qua, chúng ta đã trả giá đắt để thu được những hiểu biết và kinh nghiệm ngày nay, và chúng ta đã có bước trưởng thành”[2].

Với tinh thần: “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”[3], Đảng thừa nhận những năm qua đã phạm “những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”[4]. Trong đó, các sai lầm bắt nguồn từ “những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân”[5]. Từ đây, Đảng rút ra những bài học kinh nghiệm quan trọng cho quá trình lãnh đạo đất nước những năm tiếp theo.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng mở đầu thời kỳ đổi mới (Ảnh tư liệu)

Song hành với sự thẳng thắn nhìn thẳng vào sự thật, thừa nhận sai lầm, khuyết điểm, Đảng dũng cảm đổi mới tư duy, từ tư duy nhận thức lý luận đến tư duy lãnh đạo, quản lý đất nước. Đồng thời hoạch định được đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó chỉ rõ những hạn chế của cơ chế quản lý kinh thế theo kiểu “tập trung, quan liêu, bao cấp” đã “không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối, lưu thông, và để ra nhiều hiện tương tiêu cực trong xã hội”[6]. Vì thế, Đảng khẳng định dứt khoát: “xoá bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế”[7]. Đường lối đó liên tục được bổ sung, phát triển trong các kỳ Đại hội Đảng (từ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII, (6/1991) đến Đại hội XIII (1921) và trong thực tiễn lãnh đạo của Đảng tới tận hôm nay.

Từ quyết tâm đổi mới toàn diện và mạnh mẽ, sự đồng lòng, quyết chí của toàn Đảng, toàn dân. Việt Nam từ một nước nghèo đói, lạc hậu, phải nhập khẩu lương thực, khủng hoảng kinh tế-xã hội sâu sắc, bị Mỹ bao vây, cấm vận, … trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, từng bước vươn lên, trở thành nước xuất khẩu lương thực. Đến năm 1996, Việt Nam đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tạo được những tiền đề cần thiết để đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Việt Nam hôm nay đang phát triển mọi mặt từ kinh tế, văn hoá xã hội đến quốc phòng, an ninh…, hội nhập toàn cầu mạnh mẽ, là một thành viên có trách nhiệm của khu vực và cộng đồng quốc tế. Đặc biệt, nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng đang ngày càng sáng tỏ hơn. Đó là những nhân tố quan trọng đã, đang và sẽ tiếp tục khẳng định dấu ấn, vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời cũng là tiền đề cho đất nước ở giai đoạn phát triển tiếp theo.

(Còn tiếp)

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 36, tr.206-207.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.47, tr.343

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.346

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.360

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.360

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.362-396

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.397