Cách đây tròn 80 năm, toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vùng lên làm cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám long trời. Đó là “một cuộc cách mạng điển hình”, “một sự kiện đặc biệt ấn tượng”. Sự ấn tượng đó phản ánh trên nhiều phương diện, trong đó những quyết định đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thật sự đậm nét
Tuy nhiên, với chiêu bài cũ, các thế lực thù địch vẫn tung hô luận điệu: “Cách mạng Tháng Tám là thứ quả ngọt trời cho”; “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là “ngẫu nhiên”, “ăn may” của lịch sử?!”; “Những người làm cách mạng Tháng Tám chỉ tiến công vào một cánh cửa chính trị khép hờ?!”…
Thực tế có đúng như vậy không? Phải đi sâu vào nghiên cứu cuộc vận động cách mạng trong suốt 15 năm (1930-1945), đăc biệt là giai đoạn 1939-1945 mới hiểu rõ nhiều vấn đề.
Chính Philippe Devillers – nhà nghiên cứu lịch sử người Pháp từng nhận định: cuộc cách mạng thành công “nhanh chóng đến mức người ta sững sờ”[1] và chính ông nhận thấy sự cần thiết phải đi ngược thời gian để tìm hiểu nếu muốn biết rõ “vì sao có sự thành công nhanh chóng đó?”.
Ngược dòng lịch sử, tìm hiểu hành trình lãnh đạo 15 năm của Đảng, nhất là giai đoạn 1939-1945, có thể khẳng định: nếu chỉ dừng lại ở thời cơ khách quan thôi thì chưa đủ! Bởi nếu thời cơ tới mà Đảng ta không có sự chủ động, linh hoạt đưa ra những quyết định đúng lúc, đúng thời điểm; cũng như không có sự chuẩn bị công phu cả về tinh thần và thực lực thì cũng không thể có được thành công như vậy! Để thấy vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng – nhân tố hàng đầu quyết định thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
“Thay đổi chiến lược”, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu
Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra; tháng 9/1940, quân đội phát xít Nhật tràn vào, câu kết với thực dân Pháp đẩy dân tộc Việt Nam vào cảnh “một cổ hai tròng”. Trước tình hình đó, liên tiếp các cuộc họp quan trọng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng diễn ra. Hội nghị tháng 11/1939 Đảng nhận định: Chiến tranh đã thúc đẩy các mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội thuộc địa và phong kiến lên đến đỉnh điểm đòi hỏi phải được giải quyết, trong đó gay gắt nhất là mâu thuẫn đế quốc và các dân tộc Đông Dương; “Cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị gây nên bởi đế quốc chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách mệnh Đông Dương nổ bùng và tiền đồ cách mệnh giải phóng Đông Dương nhất định sẽ quang minh rực rỡ”[2]. Hội nghị quyết định thay đổi chiến lược, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc - “nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc”[3].
Cuộc mít tinh ngày 17/8/1945 tại Nhà hát Lớn Hà Nội (Ảnh tư liệu)
Hội nghị tháng 11/1940 Đảng chỉ rõ: Kẻ thù của nhân dân Đông Dương lúc này là thực dân Pháp và phát xít Nhật, cần chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, trực tiếp đó của dân tộc.
Đặc biệt, Hội nghị tháng 5/1941, Đảng ta xác định “cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”[4]; tiếp tục tạm gác nhiệm vụ “cách mạng ruộng đất”, chỉ đề ra khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của đế quốc và việt gian chia cho dân cày nghèo, giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng đất công, tiến tới thực hiện “người cày có ruộng”. Đảng ta khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[5]. Ba hội nghị quan trọng trên cho thấy bước phát triển trong tư duy, nhận thức của Đảng về vấn đề dân tộc - giai cấp, từ đó quyết định “thay đổi chiến lược”, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Chính quyết định đó của Đảng đã soi sáng con đường tiến lên của toàn dân tộc trong điều kiện mới của lịch sử.
Xây dựng lực lượng cách mạng, xác định hình thái khởi nghĩa độc đáo
Với đường lối chiến lược đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, Đảng chủ trương xây dựng lực lượng cách mạng, bao gồm cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; phát triển lực lượng ở cả nông thôn và thành thị; tiến hành khởi nghĩa từng phần khi có điều kiện, giành chính quyền từng bộ phận, mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Với định hướng đó, Trung ương Đảng tập trung xây dựng lực lượng cách mạng, mà trước hết xây dựng lực lượng chính trị quần chúng. Việc thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) là một quyết định rất sáng tạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh. Với chương trình cứu nước tuyên bố, Việt Minh đã thu phục, động viên các giai tầng trong xã hội hướng ứng và tham gia cách mạng.
Song song với đó, Đảng chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “phải tìm một hình thức vũ trang đấu tranh linh hoạt hơn, chính trị trọng hơn quân sự, để đẩy mạnh phong trào đi tới và củng cố chính trị”[6]. Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng được thành lập (22/12/1944). “Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện”[7]. Với chủ trương xây dựng lực lượng độc đáo, kháng chiến toàn dân, hình thái khởi nghĩa từng phần… đã tạo lập được thế đất nước sẵn sàng tiến hành tổng khởi nghĩa.
Quyết định mau lẹ và kịp thời khi thời cơ tới
Đêm 09/3/1945, Nhật đảo chỉnh lật đổ Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Thường vụ mở rộng họp, đánh giá tình hình và ngày 12/3/1945 ban hành Chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, trong đó xác định: Kẻ thù chính của nhân dân ta sau cuộc đảo chính là phát xít Nhật; thay đổi khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Pháp – Nhật” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”; phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa. Có thể nói, đây là quyết định sáng suốt của Đảng. Bởi nếu ở thời điểm đó Đảng ta phát động tổng khởi nghĩa thì tổn thất sẽ rất lớn khi quân Nhật ở Việt Nam còn mạnh. Thêm nữa, chính quyền cách mạng trên phạm vi cả nước chưa được thiết lập; lực lượng cách mạng chưa đủ mạnh để làm cuộc tổng khởi nghĩa... Phát động Cao trào kháng Nhật cứu nước để ta có thêm thời gian huy động lực lượng và quan sát thêm diễn tiến tình hình quân Nhật.
Nhân dân Hải Phòng mít tinh mừng thắng lợi của khởi nghĩa tại Hải Phòng (Ản tư liệu)
Giữa lúc cao trào kháng Nhật, cứu nước của nhân dân ta đang phát triển vô cùng mạnh mẽ, ngọn lửa yêu nước và cách mạng dâng cao chưa từng thấy trong các tầng lớp nhân dân, thậm chí các tầng lớp trung gian đã nhận rõ bộ mặt của phát xít Nhật và tay sai sẵn sàng làm cách mạng. Những thuận lợi là rất to lớn, nhưng bằng nhãn quan chính trị sắc bén, Đảng ta cũng nhìn thấy những nguy cơ từ sự chống phá của các phần tử phản động trong nước, các thế lực xâm lược đang trông chờ sự giúp sức của quân Đồng Minh, thậm chí ngay trong chính những đạo quân Đồng Minh mang quân vào Việt Nam theo thoả thuận tại Hội nghị Posdam.
Trước tình hình mới, Đảng xác định thời cơ thuận lợi hiếm hoi đã đến nhưng rất ngắn ngủi. Trong tình thế chín muồi: phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng quân Đồng Minh. Vì vậy, ngày 12/8/1945, khi Đài phát thanh San Fransisco của Mỹ loan tin Nhật chấp nhận đầu hàng thì cũng là lúc Đảng ta đã quyết định ban hành lệnh tổng khới nghĩa trên toàn quốc ngay ngày hôm sau 13/8/1945.
Có thể nói, đây là quyết định “kịp thời, khôn théo và kiên quyết, huy động cao độ trí tuệ và sức mạnh của toàn dân giành thắng lợi trong cuộc chạy đua lịch sử giữa nhân dân với tập đoàn đế quốc và phản động”[8].
Nói kịp thời và đúng lúc bởi: Nếu đứng trước tình thế lịch sử này mà Đảng ta còn chần chừ, do dự hay nhờ cậy vào bóng quân Đồng Minh vào giải giáp, tước vũ khí quân đội Nhật mới tiến hành tổng khởi nghĩa thì chắc chắn chúng ta khó lòng thắng. Điều đó càng minh chứng cho nhận định: “những người lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám đã khéo chọn lúc để giáng một đòn chí tử, khéo chọn lúc để phát động tổng khởi nghĩa, ấy là lúc tình hình đã hết sức khủng hoảng, đội tiên phong đã sẵn sàng chiến đấu đến cùng, hậu bị quân đã sẵn sàng ủng hộ đội tiên phong và hàng ngũ quân địch đã rối loạn, hoang mang đến cực điểm”.
Tổng khởi nghĩa ở cả nông thôn và thành thị
Thời cơ “ngàn năm có một” tới, lò lửa tổng khởi nghĩa toàn dân với tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” bùng cháy ở cả nông thôn và thành thị, Đảng ta chủ trương: “Chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê. Thành lập những uỷ ban nhân dân ở những nơi ta làm chủ”[9].
Điều này không giống với cách mạng Nga (diễn ra từ thành thị phát triển về nông thôn); cũng không giống cách mạng Trung Quốc (từ nông thôn tiến về thành thị, lấy nông thôn bao vây thành thị)… Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam diễn ra đồng thời và kết hợp hài hoà: Nông thôn - Thành thị. Có được hình thái khởi nghĩa độc đáo đó là bởi Đảng ta đã nhận thức rất đúng về vị trí, vai trò và mối quan hệ chặt chẽ giữa nông thôn và thành thị; qua đó Đảng bám nắm được tình hình từng địa bàn, đề ra các hình thức và phương pháp đấu tranh thức thích hợp với từng địa bàn, xây dựng lực lượng phát triển rộng khắp để khi thời cơ tới.
Có thể nói, với sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh góp phần quyết định cho thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. 80 năm nhìn lại sự kiện lịch sử vĩ đại này, những ý nghĩa và giá trị lịch sử và bài học kinh nghiệm để lại vẫn vô cùng sâu sắc! Một trong những bài học kinh nghiệm quý giá là: Trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nào cũng phải luôn luôn phát huy tính chủ động, sáng tạo của Đảng và quảng đại quần chúng dựa trên cơ sở nắm vững mục tiêu chiến lược: Độc lập dân tộc – Chủ nghĩa xã hội - Tự do – Hạnh phúc cho nhân dân.
[1] Philippe Devillers: Histoire du Vietnam de 1945 à 1952, Editions du Seuil, Paris, 1952.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr.535
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.538.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.119.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.113
[6] Võ Nguyên Giáp: Khu giải phóng, Cứu quốc, 1946.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.539.
[8] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I (1930-1954), Quyển 1 (1930-1945), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr. 682.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.425.