Việt Nam, từ khát vọng hòa nhập thế giới sau khi giành độc lập năm 1945 đến lá cờ thứ 149 tại Liên hiệp quốc năm 1977 là một hành trình bền bỉ vì hòa bình và hội nhập, vượt qua nhiều trở ngại, trải qua nhiều giai đoạn và những đóng góp to lớn cho tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh
Mong muốn gia nhập Liên hiệp quốc và những trở ngại
Trước hết, đó là tác động của Chiến tranh Lạnh. Trong giai đoạn đầu, đặc biệt là sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi đơn xin gia nhập vào tháng 01/1946, bối cảnh Chiến tranh Lạnh đã ảnh hưởng đến tiến trình gia nhập của Việt Nam.
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, quan hệ giữa Việt Nam và Liên hiệp quốc còn hạn chế, vai trò và vị thế của Việt Nam tại tổ chức này bị giới hạn.
Thứ hai, tiến trình này gặp phải sự phản đối từ các cường quốc. Khi Quốc gia Việt Nam (chính phủ bù nhìn do Pháp dựng lên năm 1949) cũng đệ đơn xin gia nhập Liên hiệp quốc vào năm 1951, với sự đề cử của Pháp, trong khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Liên Xô đề cử, cả hai đều không được công nhận là thành viên do cơ chế phủ quyết.
Sau khi Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết năm 1973, mặc dù Việt Nam đã có sự công nhận về độc lập, chủ quyền và thống nhất, nhưng tại Hội đồng Bảo an, Hoa Kỳ đã sử dụng quyền phủ quyết để ngăn cản việc Việt Nam gia nhập Liên hiệp quốc.
Thứ ba là Việt Nam chưa được quốc tế công nhận rộng rãi ban đầu, sau khi giành được độc lập. Tại thời điểm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi đơn xin gia nhập vào năm 1946, Việt Nam chưa được bất kỳ quốc gia nào công nhận chính thức. Việc Việt Nam chưa được công nhận rộng rãi đã là một yếu tố cản trở trong việc gia nhập Liên hiệp quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – người khởi xướng hành trình
Chủ tịch Hồ Chí Minh đóng vai trò vô cùng quan trọng và mang tính khởi xướng trong những nỗ lực đầu tiên của Việt Nam nhằm gia nhập Liên hiệp quốc.
Ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy tầm quan trọng của Liên hiệp quốc trong việc duy trì hòa bình, an ninh và thúc đẩy hợp tác quốc tế. Với tầm nhìn xa trông rộng, Người đã chủ động đề xuất Việt Nam gia nhập tổ chức này.
Vào ngày 14/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi thư đến đại diện các cường quốc Liên xô, Mỹ, Trung Hoa dân quốc tại Liên hiệp quốc, bày tỏ nguyện vọng Việt Nam gia nhập tổ chức quốc tế này.
Bức điện viết: "Quốc dân chúng tôi đã giành được quyền độc lập và giữ vững nền độc lập, thiết tha yêu cầu các ngài công nhận nền độc lập ấy và nhận chúng tôi vào Hội đồng Liên hợp quốc. Theo như lời tuyên bố của vị đại diện Trung Hoa Cố Duy Quân thì Á châu chưa có đủ đại biểu trong Hội nghị. Chúng tôi tin rằng sự có mặt của chúng tôi trong Hội nghị sẽ có ích nhiều cho việc giải quyết một cách nhanh chóng và hoà bình cho các vấn đề ở Đông Nam Á châu hiện nay"1.
Hành động này thể hiện mong muốn thiết lập quan hệ quốc tế và đưa Việt Nam hòa nhập vào cộng đồng thế giới ngay từ những năm tháng đất nước mới giành được độc lập.
Cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh vì độc lập, tự do và thống nhất đất nước đã đóng góp tích cực vào mục tiêu cao cả của Liên hiệp quốc là thúc đẩy hòa bình, độc lập, bình đẳng giữa các dân tộc và quyền tự quyết của dân tộc.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, góp phần chấm dứt chủ nghĩa thực dân vào những thập niên sau đó, phù hợp với tinh thần và mục tiêu của Hiến chương Liên hiệp quốc.
Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người khởi xướng khát vọng gia nhập Liên hiệp quốc mà còn là biểu tượng cho tinh thần đấu tranh vì độc lập, tự do, góp phần khẳng định các giá trị mà Liên hiệp quốc hướng tới.
Nghị quyết của Liên hiệp quốc kết nạp Việt Nam làm thành viên thứ 149, năm 1977
Những nỗ lực mạnh mẽ
Ngay sau ngày độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần gửi thư tới các cường quốc và Liên Hợp Quốc đề nghị công nhận độc lập và xem xét cho Việt Nam tham gia Liên hiệp quốc, khẳng định mong muốn hòa bình, hợp tác và thừa nhận quốc tế của một quốc gia mới giành độc lập.
Nỗ lực gia nhập kéo dài qua nhiều thập kỷ do chiến tranh, chia cắt và bối cảnh đối đầu quốc tế. Trong những năm 1954 - 1975, cả hai miền đều đệ trình đơn xin gia nhập Liên hiệp quốc nhưng tiến trình bị phủ quyết tại Hội đồng Bảo an.
Ngày 20/9/1977, Đại hội đồng LHQ thông qua nghị quyết kết nạp Việt Nam; lễ thượng cờ tại New York đánh dấu Việt Nam trở thành thành viên thứ 149, mở chương mới hội nhập đa phương.
Trong những năm 1945-1954, Việt Nam khẳng định mong muốn tham gia các định chế Liên hiệp quốc, kêu gọi vai trò trung gian của Liên hiệp quốc trước chiến sự, nhưng điều kiện quốc tế chưa thuận lợi.
Trong những năm 1954-1975 và từ năm 1969, đất nước tạm thời chia cắt; Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tiếp tục nêu yêu cầu tại Liên hiệp quốc, đỉnh điểm là hai đơn xin gia nhập tháng 7/1975, sau khi đất nước thống nhất. Đại hội đồng ủng hộ, song tiến trình tiếp tục bị phủ quyết ở Hội đồng bảo an, khiến nỗ lực tạm thời đình trệ.
Đến năm 1977, cục diện quốc tế thay đổi, Việt Nam đẩy mạnh vận động ngoại giao đa phương. Đại hội đồng Liên hiệp quốc khóa 32 thông qua Nghị quyết 32/2 kêu gọi viện trợ tái thiết và chính thức kết nạp Việt Nam ngày 20/9/1977.
Sau khi gia nhập, Việt Nam tranh thủ nguồn lực của hệ thống Liên hiệp quốc (UNDP, UNICEF, WHO, UNFPA...), đồng thời chủ động tham gia, từng bước để lại “dấu ấn Việt Nam” tại các cơ quan chủ chốt và trong nghị trình toàn cầu.
Về đối nội, tạo “hành lang đa phương” hỗ trợ tái thiết, cải thiện thể chế, chính sách xã hội, giáo dục, y tế; là động lực cho công cuộc Đổi mới và hội nhập sâu rộng sau này.
Về đối ngoại, khẳng định đường lối độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chuyển vai từ nước nhận hỗ trợ sang đối tác bình đẳng, chủ động đóng góp, trong đó có gìn giữ hòa bình, quyền con người, phát triển bền vững và biến đổi khí hậu.
Nỗ lực gia nhập Liên hiệp quốc của Việt Nam là hành trình kiên định từ khát vọng độc lập, hòa bình đến hội nhập đa phương hiệu quả. Sự kiện 20/9/1977 không chỉ “mở cửa” nguồn lực tái thiết mà còn đặt nền cho vị thế quốc tế ngày nay của Việt Nam-một thành viên tích cực, có trách nhiệm, đóng góp cho hòa bình và phát triển bền vững.
Lễ thượng cờ Việt Nam tại Liên hiệp quốc, ngày 20/9/1977 (Ảnh tư liệu)
Những đóng góp tích cực của Việt Nam từ khi gia nhập
Trong gần nửa thế kỷ qua, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực và đa dạng cho Liên hiệp quốc cũng như các vấn đề toàn cầu sau khi gia nhập, thể hiện vai trò là một thành viên có trách nhiệm và chủ động.
Trên phương diện hòa bình và an ninh quốc tế, Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc, cử hàng trăm lượt sĩ quan quân đội và công an tham gia các phái bộ tại nhiều quốc gia châu Phi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và được cộng đồng quốc tế ghi nhận.
Việt Nam hai lần được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021), đóng góp vào việc duy trì hòa bình, an ninh quốc tế thông qua việc đề xuất nhiều sáng kiến quan trọng. Đó là đề xuất Nghị quyết về Phụ nữ, hòa bình và an ninh (Nghị quyết 1889), chủ trì các phiên thảo luận mở về các vấn đề quan trọng như tuân thủ Hiến chương Liên hiệp quốc, hợp tác giữa Liên hiệp quốc và ASEAN, đề xuất lấy ngày 27/12 hằng năm là Ngày Quốc tế phòng chống dịch bệnh.
Đối với việc thúc đẩy giải trừ quân bị và không phổ biến vũ khí, Việt Nam là thành viên tích cực của các điều ước quốc tế quan trọng về giải trừ quân bị, không phổ biến vũ khí hạt nhân và vũ khí hóa học, thể hiện cam kết vì một thế giới an toàn hơn. Đối với việc bảo vệ cơ sở hạ tầng thiết yếu, Việt Nam đã chủ trì việc xây dựng và thúc đẩy thông qua Nghị quyết riêng đầu tiên của Hội đồng Bảo an về bảo vệ hạ tầng thiết yếu đối với sự sống của người dân trong xung đột.
Trên phương diện phát triển bền vững, thực hiện Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs), Việt Nam được đánh giá cao về nỗ lực hoàn thành các Mục tiêu Phát triển Bền vững, đặc biệt là các mục tiêu về xóa đói giảm nghèo, giáo dục, trao quyền cho phụ nữ, y tế và bình đẳng giới. Việt Nam chia sẻ những kinh nghiệm quý báu trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo với các nước trên thế giới, đặc biệt thông qua hợp tác Nam-Nam và các dự án ba bên.
Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050, tích cực phát triển năng lượng tái tạo và tham gia các sáng kiến quốc tế về biến đổi khí hậu.
Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ của Liên hiệp quốc trong phòng chống đại dịch COVID-19 và các thiên tai, đồng thời cũng có những đóng góp hỗ trợ các hoạt động nhân đạo của Liên hiệp quốc.
Cải cách và hiệu quả hoạt động của Liên hiệp quốc, Việt Nam là một trong những quốc gia tiên phong trong việc triển khai sáng kiến "Thống nhất hành động" (Delivering as One) nhằm cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức Liên hiệp quốc tại cấp độ quốc gia.
Trên phương diện quyền con người và các vấn đề nhân đạo, Việt Nam cũng có nhiều đóng góp đối với thế giời. Cụ thể là Việt Nam tích cực tham gia vào các cơ chế về quyền con người của Liên hiệp quốc, đề cao đối thoại và hợp tác, đồng thời bảo vệ quyền con người theo chuẩn mực quốc tế, đề xuất các sáng kiến nhằm bảo vệ quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, phụ nữ, trẻ em và người khuyết tật. Ngoài ra, Việt Nam đã có sáng kiến đề xuất lấy ngày 27/12 là Ngày Quốc tế phòng chống dịch bệnh để nâng cao nhận thức và sự sẵn sàng ứng phó với các dịch bệnh toàn cầu.
Quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Liên hiệp quốc đã phát triển mạnh mẽ, sâu rộng và hiệu quả trong suốt gần nửa thế kỷ qua, mang lại lợi ích cho cả hai bên và đóng góp vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trên thế giới.
Hiện nay, Việt Nam nhấn mạnh cam kết chủ nghĩa đa phương, thượng tôn Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế; chuẩn bị đảm nhiệm thêm các trọng trách quốc tế, tiếp tục mở rộng đóng góp thực chất vào hòa bình, an ninh và phát triển bền vững.
Hợp tác Việt Nam-Liên hiệp quốc giai đoạn 2022-2026 tập trung vào bốn trụ cột: đầu tư vào con người; thích ứng khí hậu và bền vững môi trường; thịnh vượng và đối tác; công lý, hòa bình và quản trị toàn diện.
___________________
Hồ chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà nội, 2011, t. 4, tr. 180.