Trước hết phải khẳng định rằng, hiện nay Đảng ta xác định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia” không phải là sự biểu hiện của chệch hướng xã hội chủ nghĩa, mà là để rút ngắn thời kỳ quá độ, làm cho mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” sớm thành hiện thực. Quan điểm này của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, có cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc. Cụ thể:

   Về lý luận, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về đặc điểm, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ; về con đường, biện pháp cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa vào thực tiễn Việt Nam.

   Về thời kỳ quá độ, V.I.Lênin khẳng định: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy”[1]. V.I.Lênin chỉ ra ở nước Nga khi đó có 5 thành phần kinh tế: kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế nông dân gia trưởng.

   Về nhiệm vụ của thời kỳ quá độ, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ một trong những nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ quá độ là phải xóa bỏ chế độ tư nhân tư bản chiếm hữu về tư liệu sản xuất, chứ không phải xóa bỏ sở hữu tư nhân nói chung; xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; song công việc đó phải được tiến hành trên cơ sở tuân thủ quy luật khách quan.

    Phân tích mâu thuẫn giữa sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa, Ph.Ăngghen cho rằng: “Những lực lượng sản xuất mạnh mẽ dễ tăng thêm đó đã vượt quá chế độ tư hữu và nhà tư sản đến mức là nó luôn luôn gây ra những sự chấn động hết sức mạnh mẽ trong chế độ xã hội. Cho nên, chỉ có ngày nay, việc thủ tiêu chế độ tư hữu mới trở thành không những là điều có thể thực hiện được, mà thậm chí còn là điều hoàn toàn cần thiết”[2]. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản… tức là cái sở hữu bóc lột lao động làm thuê”.[3]

   Về con đường, biện pháp xóa tư hữu, xây công hữu về tư liệu sản xuất là phải tiến hành dần dần, từng bước, lâu dài, trên cơ sở tôn trọng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trả lời cho câu hỏi “Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không? C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu… sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”[4].

   Khi bàn về biện pháp để xóa chế độ tư hữu, các nhà kinh điển Mác-Lênin khẳng định ưu tiên biện pháp hoà bình. Trả lời cho câu hỏi có thể sử dụng biện pháp hòa bình được không, Ph. Ăngghen trả lời: “Có thể mong muốn là sẽ làm được như vậy, và dĩ nhiên những người cộng sản sẽ là những người sau cùng trong số những người phản đối việc đó”[5]. V.I. Lênin, đã sử dụng nhiều biện pháp để cải tạo sở hữu tư nhân về TLSX, xây dựng sở hữu công cộng về TLSX, trong đó biện pháp về kinh tế - sử dụng các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước được Người đặc biệt quan tâm. V.I.Lênin cho rằng: “Trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội”[6].

   Cơ sở thực tiễn:

- Xuất phát từ đặc điểm kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ. “Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề, các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội đan xen nhau”[7].

   Thực hiện đường lối đổi mới, mà trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế, Đảng ta ngày càng nhận thức đúng đắn vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân. Đại hội VI của Đảng đã thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân: “Coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”[8]. Đại hội X của Đảng chính thức khẳng định kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã ban hành Quy định số 15-QĐ/TW, ngày 28/8/2006, “Về đảng viên làm kinh tế tư nhân”. Hội nghị Trung ương 5 khóa XII ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 03/6/2017, “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, với các mục tiêu cụ thể và 5 nhóm giải pháp khuyến khích, hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao”[9]. “Phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60 - 65%”[10].

   - Xuất phát từ thực trạng kinh tế tư nhân nước ta sau gần 40 năm đổi mới. Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, “Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân nước ta đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đến nay, đã có hơn 940.000 doanh nghiệp và trên 5 triệu hộ kinh doanh, kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và 82% tổng số lao động... Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, khu vực kinh tế tư nhân vẫn đang bộc lộ những hạn chế, bất cập. Phần lớn doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, kỹ năng quản trị chưa cao, năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động còn yếu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, nhưng chủ yếu là do: “Tư duy, nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế còn chưa đầy đủ, chưa theo kịp yêu cầu phát triển; thể chế, pháp luật còn vướng mắc, bất cập; công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa được quan tâm đúng mức; quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh chưa được bảo đảm đầy đủ. Kinh tế tư nhân còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong tiếp cận nguồn lực, đặc biệt là vốn, công nghệ, đất đai, tài nguyên và nhân lực chất lượng cao. Một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả và khó tiếp cận; chi phí kinh doanh còn cao”[11]. Để khơi dậy, phát huy tiềm năng, sức mạnh của khu vực kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên mới, Nghị quyết số 68-NQ/TƯ xác định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”.

   - Đảng ta xác định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”, với phương diện là để khai thác tối đa, có hiệu quả các nguồn lực của xã hội cho phát triển đất nước. Xác định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất không có nghĩa là xem nhẹ, hạ thấp, phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm và truyền thống của mình, Đảng, Nhà nước ta đã và đang thực hiện có hiệu quả việc định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế theo mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh”.

  - Thực tiễn sau gần 40 năm đổi mới ở Việt Nam đã chứng minh chúng ta không chệch hướng xã hội chủ nghĩa, mà những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ngày càng được thực hiện tốt hơn. Sau gần 40 năm đổi mới nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, làm cho “cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế” của đất nước không ngừng nâng cao. Kinh tế tăng trưởng cao, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên; quốc phòng an ninh được tăng cường; quan hệ quốc tế được mở rộng, vị thế uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Thành tựu trên là minh chứng phản bác những quan điểm sai trái, xuyên tạc cho rằng: “Đảng cộng sản Việt Nam coi kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất chính là biểu hiện đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa”. Do đó, cán bộ, đảng viên và người dân cần tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch này, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung và với đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước nói riêng.


[1] V.I.Lênin: Toàn tập, tập 39, Sđd, 2005, tr.309-310.

[2]C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. CTQG, T.4, tr.468

[3] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. CTQG, T.4, tr.615-616

[4] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. CTQG, T.4, tr.469

[5] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. CTQG, T.4, tr.469

[6] V.I. Lênin, Toàn tập, tập 43, Nxb, Tiến bộ, M 1978, tr189

[7] Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (2021), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hà Nội.

[8] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 56

[9] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 130,

[10] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 130.