Trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đã dành nhiều dung lượng để xác định rõ định hướng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, coi đây là động lực phát triển, phương thức xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; cũng như là giải pháp chiến lược nhằm củng cố niềm tin xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn phát triển mới. Tuy nhiên, trong quá trình chuẩn bị, công bố và lấy ý kiến cán bộ lãnh đạo, quản lý lão thành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội tiến tới lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp nhân dân thì các thế lực thù địch, phản động đã gia tăng hoạt động chống phá với nhiều hình thức tinh vi và xảo quyệt nhằm xuyên tạc, bóp méo bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

     1. Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong dự thảo văn kiện đại hội XIV của Đảng

     Cụ thể là, các thế lực thù địch đã:

     (i) phủ nhận mọi thành tựu của cách mạng Việt Nam, trong đó có những tiến bộ về dân chủ được nêu trong Dự thảo Văn kiện XIV. Chúng lồng ghép luận điệu “chưa có dân chủ thật sự” vào chủ trương, đường lối và thực thi của Đảng, Nhà nước trên mọi lĩnh vực. Xuyên tạc rằng những đổi mới về cơ chế tiếp xúc cử tri, giám sát của nhân dân chỉ mang tính hình thức, không đi vào cuộc sống. Mục tiêu là làm hoài nghi lòng tin và sự tự hào của nhân dân về những gì mà Đảng, Nhà nước ta đã dày công xây dựng.

     (ii) Cho rằng “dân chủ xã hội chủ nghĩa” trong Dự thảo Văn kiện chỉ là lý thuyết xa vời, không hề xuất phát từ thực tiễn đa dạng của Việt Nam, chỉ “mở rộng” quản lý, mà lại “giới hạn” dân chủ. Mọi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội được đề ra đều thiếu cơ sở khoa học và phi thực tế, không có tiếng nói của người dân, dẫn đến việc chính sách không phù hợp với đời sống người dân.

     (iii) Cho rằng thời điểm này, Việt Nam với “chế độ một đảng cai trị” đã không còn tính đúng đắn, phù hợp, chỉ mang lại sự độc đoán và thiếu dân chủ. Mọi chính sách do Đảng đề xuất đều phục vụ cho lợi ích nhóm, bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận và tham gia chính trị của nhân dân. Chúng sử dụng hình ảnh các cuộc tụ tập, biểu tình tự phát bị xử lý, đặc biệt là một số cán bộ cấp cao bị xử lý trong những năm gần đây để minh chứng cho “sự đàn áp khác chính kiến” của Nhân dân và “thoái hóa, biến chất” trong cán bộ đảng viên. Mục đích cuối cùng là kích động chống phá từ bên trong, kêu gọi can thiệp nước ngoài “giải cứu dân chủ” ở Việt Nam.

     2. Luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về định hướng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong dự thảo văn kiện đại hội XIV của Đảng

     Thứ nhất, thành tựu nổi bật về dân chủ ở nước ta trong gần 40 năm đổi mới là không thể phủ nhận

     Qua gần 40 năm tiến hành đổi mới từ 1986 đến nay, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân từng bước được xây dựng, hoàn thiện, ngày càng phục vụ tốt hơn các nhu cầu của nhân dân. Một trong những thành tựu cơ bản trong nền dân chủ tiến bộ ở nước ta trong những năm đổi mới đó là quyền làm chủ của Nhân dân, giá trị nền tảng được quán triệt các văn kiện Đảng cho thấy Đảng ta nhất quán xem dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn đổi mới, bám sát thực tiễn và lắng nghe nhân dân, chúng ta đã bốn lần sửa đổi Hiến pháp (1992, 2001, 2013, 2025) khẳng định sự hiến định hóa ngày càng sâu rộng các quyền con người. Những đạo luật chuyên ngành về dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và dân chủ ở cơ sở hình thành một chỉnh thể thống nhất và được triển khai thực hiện sâu rộng. Thêm vào đó, cơ chế phản biện xã hội, giám sát quyền lực qua Quốc hội, báo chí, tư pháp và Mặt trận Tổ quốc là sự hội tụ giữa lý luận Mác-Lênin về nhà nước và thực tiễn quản trị hiện đại, bác bỏ khẳng định rằng “không có kênh phản hồi chính thức”.

     Trong suốt gần bốn thập kỷ đổi mới, nước ta đã không ngừng củng cố và phát huy quyền làm chủ của nhân dân qua các cải cách thể chế, mở rộng dân chủ cơ sở, tăng cường giám sát xã hội và bảo đảm sự tham gia của các tầng lớp nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta được bảo đảm các quyền cơ bản: độc lập dân tộc, bình đẳng quốc tế và quyền tự do đi lại, cư trú, xuất nhập cảnh theo Hiến pháp 2013. Công dân được tham gia quản lý nhà nước, thảo luận và kiến nghị về các vấn đề địa phương, quốc gia. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện, với các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Văn hóa phát triển đa dạng trên nền tảng tiến bộ, nhân văn; giáo dục, y tế, khoa học công nghệ được chú trọng để nâng cao đời sống con người. 54 dân tộc cùng đoàn kết, các tôn giáo tự do hoạt động; người dân có quyền dân chủ trực tiếp qua bầu cử và các hình thức giám sát, phản biện xã hội. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” đã trở thành cơ chế, nguyên tắc hoạt động của hệ thống chính trị.

     Những thành tựu đó không chỉ được ghi nhận bằng các con số về tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân và phúc lợi xã hội, mà còn thể hiện rõ qua sự hài lòng ngày càng cao của người dân và uy tín quốc tế ngày càng được khẳng định.

     Thứ hai, dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thể hiện cả về lý luận và thực tiễn

      Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ được khẳng định vững chắc trên cơ sở lý luận qua các văn kiện Đảng, qua Hiến pháp, pháp luật mà còn được thực tiễn hóa qua hệ thống bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp; vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội; việc phát huy dân chủ ở cơ sở (như hương ước, quy ước thôn bản, tổ dân phố); hoạt động tiếp công dân, giám sát, phản biện… là những biểu hiện cụ thể cho thấy nhân dân Việt Nam được làm chủ trên thực tế sinh động, chứ không phải chỉ trên lý thuyết. Trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, chúng ta cũng đã chỉ rõ một trong những bài học quan trọng là: “quán triệt sâu sắc và thực hành triệt để quan điểm “Dân là gốc”. Phát huy vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân”[1].

     Tuy nhiên, các thế lực thù địch đã cố tình cắt xén, suy diễn các nội dung này để rêu rao rằng “Đảng chỉ nói suông về dân chủ”, rằng “không có cam kết cụ thể về quyền tự do báo chí, lập hội, biểu tình...”. Một số tổ chức quốc tế và các kênh truyền thông nước ngoài vẫn cho rằng dân chủ ở Việt Nam chỉ là “trên giấy tờ”, còn trên thực tế “người dân không có quyền bầu cử thật sự, không được phản biện chính sách, không có tiếng nói trong bộ máy quyền lực”. Đây là một sự xuyên tạc trắng trợn, cố tình bỏ qua thực tế cải cách thể chế và mở rộng dân chủ từng bước có hiệu quả tại Việt Nam. Một luận điệu rất phổ biến của các thế lực thù địch là: “Muốn có dân chủ thực sự thì phải có tự do báo chí tuyệt đối, tự do ngôn luận không bị kiểm duyệt, phải có quyền lập hội, biểu tình bất kỳ lúc nào…”. Đây là lối lập luận nguy hiểm, đánh đồng dân chủ với vô chính phủ, tạo điều kiện cho các thế lực chống phá lợi dụng các quyền tự do để kích động, gây rối an ninh – trật tự.

     Trên thực tế, Việt Nam đã không ngừng mở rộng không gian dân chủ cả về thể chế lẫn thực tiễn. Luật Báo chí, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Bầu cử, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở… là những bước tiến thể chế hóa quyền dân chủ của nhân dân. Hiện nay, hơn 70% dân số sử dụng Internet; hàng chục triệu người sử dụng mạng xã hội để thể hiện quan điểm cá nhân; báo chí, truyền thông vận hành sôi động – đó là những biểu hiện sinh động của dân chủ, dù vẫn cần kiểm soát chặt chẽ để tránh thông tin giả, xuyên tạc. Thực tiễn cho thấy, kỳ bầu cử Quốc hội khóa XV (2021–2026), tỷ lệ cử tri đi bầu đạt trên 99,6%, với 499 đại biểu được bầu trong số 866 ứng cử viên, trong đó có 14,4% là người ngoài Đảng. Các kỳ Đại hội trước đây cũng như lần này, các địa phương trên cả nước đã có nhiều hình thức đa dạng để nhiều tầng lớp nhân dân tham gia góp ý vào Dự thảo Văn kiện[2]. Theo đánh giá của chỉ số PAPI 2024 của UNDP xếp Việt Nam nhóm đầu ASEAN về “Tham gia của người dân cấp cơ sở”. Một điểm nổi bật nữa là Quốc hội truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn không giới hạn chủ đề, chuẩn hóa trách nhiệm giải trình. Việc hơn 700 tổ chức đảng và 24.000 đảng viên vi phạm bị kỷ luật, tham nhũng bị xử lý trong năm 2024[3] khẳng định dân chủ gắn liền liêm chính, sự nghiêm minh, quyết tâm cao trong phòng chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta. Đây là những biểu hiện cụ thể, minh chứng sinh động cho thấy dân chủ ở Việt Nam không phải khẩu hiệu, càng không phải hình thức.

     Mặt khác, Việt Nam luôn nhất quán quan điểm rằng dân chủ không tách rời kỷ cương, pháp luật và đạo đức xã hội. Dân chủ không thể là sự tự do vô chính phủ, càng không thể là công cụ để lật đổ chế độ hay tạo ra “cách mạng màu” như từng xảy ra ở nhiều quốc gia. Chính vì thế, các luận điệu đòi “tự do báo chí”, “cho phép lập hội tự phát”, hay “bãi bỏ chế độ kiểm duyệt nội dung phản biện” thực chất là đòn tấn công nhằm làm rối loạn nền dân chủ thực chất ở Việt Nam.

     Thực tế trên thế giới đã chứng minh không có một quốc gia dân chủ nào mà quyền tự do lại không có giới hạn. Liên hợp quốc cũng khẳng định: “Dân chủ đòi hỏi kỷ cương trong quản lý công, trách nhiệm giải trình của các cơ quan, và pháp quyền nhằm bảo vệ quyền con người và ngăn chặn tham nhũng”[4].

     Thứ ba, Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định lãnh đạo và hiện thực hóa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa toàn diện

     Khi thấy Đảng ta khẳng định trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV sự kiên định vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao trách nhiệm giải trình và năng lực thực thi của hệ thống chính trị: “Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”[5], các thế lực thù địch lập tức xuyên tạc rằng “Đảng tiếp tục bảo thủ, độc quyền lãnh đạo”, rằng “không có cải cách chính trị thực sự”. Với luận điệu “phải có cạnh tranh chính trị, đa đảng thì mới có dân chủ thực sự”, các thế lực thù địch nhằm vào trọng tâm: phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi “đa nguyên, đa đảng”, cổ súy cho mô hình chính trị đối lập. Đây là thủ đoạn chủ yếu trong chiến lược “diễn biến hòa bình” mà các thế lực phản động quốc tế và cơ hội chính trị trong nước đang ráo riết triển khai. Những quan điểm này đã lặp lại một cách nhàm chán luận điệu cũ kỹ mà các thế lực phản động, cơ hội chính trị thường sử dụng. Chúng không hề quan tâm đến bản chất dân chủ hay quyền lợi của nhân dân, mà thực chất là muốn phá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, tức là phá bỏ nền tảng ổn định của chế độ và xã hội Việt Nam hiện nay.

     Cần nhấn mạnh rằng đa đảng không đồng nghĩa với dân chủ, và chỉ có một đảng lãnh đạo không đồng nghĩa với độc tài. Trên thực tế, số lượng đảng phái chính trị ở mỗi quốc gia không cho thấy mức độ dân chủ hay độc tài của họ. Có những nước xuất hiện rất nhiều đảng, chẳng hạn Anh có 97 đảng, Tây Ban Nha 87 đảng, Pháp 76 đảng…, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc tất cả đều tham gia quyền lực hay thực sự độc lập trong hoạt động chính trị. Ngược lại, lại có các quốc gia chỉ có duy nhất một đảng, như Cuba, Lào, Ghana, Việt Nam, Haiti, Monaco…, nhưng không phải vì vậy mà họ đều rơi vào chế độ độc tài. Ví dụ, Singapore có nhiều đảng, nhưng trên thực tế chỉ Đảng Hành động Nhân dân (PAP) nắm quyền điều hành; còn ở Trung Quốc, ngoài Đảng Cộng sản Trung Quốc, tồn tại 8 đảng phái khác song tất cả đều công nhận Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất lãnh đạo đất nước; ở Mỹ, khi có tới hơn 100 đảng được thừa nhận, nhưng chỉ có 2 đảng thay nhau cầm quyền: “Nước Mỹ tự xưng là đa đảng nhưng thực chất chỉ là một đảng, đó là đảng của chủ nghĩa tư bản, dù là đảng Cộng hòa hay Dân chủ, là hai nhưng thực chất lại chỉ là một đảng...”[6]. Do đó, đa đảng không đồng nghĩa với nền dân chủ, và một đảng duy nhất cũng không nhất thiết là biểu hiện của sự chuyên chế.

     Lịch sử và thực tiễn đã chứng minh rằng vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là tất yếu khách quan, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính Đảng đã lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc Đổi mới và đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, vươn lên thành quốc gia có thu nhập trung bình, có vị thế và uy tín quốc tế ngày càng cao. Việc Đảng lãnh đạo không làm mất đi dân chủ, mà bảo đảm dân chủ vận hành có định hướng, có hiệu lực và gắn bó chặt chẽ với lợi ích của nhân dân.

      Như vậy, những luận điệu đòi đa nguyên, đa đảng để “phát huy dân chủ” hoàn toàn vô căn cứ, vì chúng bỏ qua bối cảnh lịch sử, truyền thống và thể chế đặc thù của Việt Nam. Thực tế cho thấy, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã ngày càng hoàn thiện về pháp lý và thực chất trong đời sống chính trị – xã hội, với sự tham gia rộng khắp của nhân dân. Vì vậy, mọi mưu đồ xuyên tạc và kêu gọi thay đổi thể chế chính trị chỉ là chiêu trò hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân và làm suy yếu bản lĩnh, uy tín của Đảng.


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb. CTQG Sự thật, H. 2025, tr.21

[2] 5 hình thức gồm: gửi dự thảo các báo cáo để các tổ chức, cá nhân tham gia với tư cách tổ chức hoặc cá nhân; tổ chức các hội nghị lấy ý kiến theo hệ thống tổ chức; công bố dự thảo văn kiện, lấy ý kiến qua báo chí, internet, mạng xã hội, thư gửi trực tiếp; gửi để xin ý kiến phản biện của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội; tổ chức góp ý tại đại hội chi bộ, Đảng bộ, đại hội đại biểu Đảng bộ các cấp

[3] Xem: https://cand.com.vn/su-kien-binh-luan-thoi-su/nam-2024-hon-700-to-chuc-dang-va-24-000-dang-vien-vi-pham-bi-ky-luat-i755170/

[4] Nghị quyết 67/1 (2012) về Pháp quyền ở cấp quốc gia và quốc tế của Đại hội đồng Liên Hợp quốc

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb. CTQG Sự thật, H. 2025, tr.138

[6] Xem: Đinh Công Tuấn: “Thành công từ một chuyến khảo sát tìm hiểu văn hóa Âu - Mỹ tại Hoa Kỳ”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 7 (106), Hà Nội, 2009, tr. 89