Ngày 15/10/1949, trên Báo Sự thật, số 120 có đăng tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới bút danh X.Y.Z. Tháng 10/1999, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã quyết định lấy ngày 15/10/1930 là “Ngày Truyền thống công tác Dân vận của Đảng” và ngày 15/10 hằng năm là “Ngày Dân vận của cả nước” để cùng nhau học tập và thực hiện những lời Bác Hồ dạy về công tác dân vận. “Dân vận khéo” theo lời Bác trong bối cảnh cả nước thực hiện chuyển đổi số và chuyển mình mạnh mẽ để tiến vào kỷ nguyên mới hẳn tất yếu cập nhật và đổi mới từ tư duy đến cách làm.

        “Dân vận khéo” có quy trình, khuôn phép nhưng là khái niệm động, mở

        “Dân vận khéo” là cụm từ khóa hàm súc cả tác phẩm và cũng là thông điệp lớn nhất mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hành “vận” khi bài báo của mình đến với độc giả. Vì theo Người, công việc đó là một trong những mắt khâu quan trọng, xuyên suốt của tiến trình cách mạng và góp phần làm nên sự thành công. Do vậy, dân vận không thể là công việc giản đơn và xem thường kiểu “cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ”[1] và “vận được thì tốt, vận không được cũng mặc”[2] mà ngược lại rất quan trọng và phức tạp, thực hiện đúng bản chất và hiệu quả của công tác này là phải “khéo” kết quyện giữa nghệ thuật và khoa học, giữa cảm xúc với trí tuệ. Nói cách khác, sự cảm hóa, lôi cuốn, thuyết phục và thúc đẩy dân chúng tạo thành lực lượng đoàn kết, đồng thuận là nghệ thuật tinh tế của ứng xử văn hóa, đồng thời, ẩn chứa trong nó bản chất yếu tố đúng đắn, chân lý.

        “Dân vận khéo” tức người làm công tác dân vận phải thành thạo quy trình thực hiện đầy đủ các bước cơ bản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”[3]. Đồng thời, người làm công tác dân vận phải “đi trước mở đường, đi cùng thực hiện, đi sau tổng kết” với Nhân dân, với tinh thần phục vụ Nhân dân.

        Theo Người, người làm công tác tưởng nói chung, công tác dân vận nói riêng đều phải quán triệt khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng. Bất cứ việc to, việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà định ra cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế, mới có thể kéo được quần chúng”[4]. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng quần chúng không thể thuần nhất mà gồm nhiều giai tầng khác nhau, lại không đồng đều về trình độ nhận thức, hoàn cảnh xuất thân, tôn giáo, chính kiến... do đó, người làm dân vận không thể máy móc theo một công thức có sẵn mà phải “ứng vạn biến” để có cách làm thật sự phù hợp, linh hoạt với từng đối tượng, từng thời điểm cụ thể. Theo đó, “dân vận khéo” phải được hiểu là một “khái niệm động”, “mở” - tức là có sự biến đổi, linh hoạt chứ không phải “nhất thành bất biến”, là “vạn năng” để rập khuôn cho mọi hoàn cảnh, thời đại. “Khéo” phải đi cùng với “linh hoạt”, “mở” nên ngay cả cách thực hành “vận” cũng tránh sa vào “đóng kín”, xem là “đủ”. Thế nên, trong tác phẩm Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít-tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ”[5]. Ngày nay, sự bùng nổ của công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông, mở ra sự kết nối, tương tác rộng rãi, toàn diện nên hẳn nhiên nó đòi hỏi cần được “khéo” bổ sung, vận dụng vào các quy trình, phương pháp... của công tác dân vận. Nói cách khác, sự trau dồi kỹ năng tư duy, nói, viết, khả năng tiếp cận và sử dụng công nghệ... của người làm công tác dân vận là thường xuyên, không ngừng nghỉ.

        Ngoài ra, thực hành “dân vận khéo” để “không để sót một người dân nào” lẽ dĩ nhiên chủ thể của công tác dân vận cũng phải “mở” thành trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị và xã hội chứ không thể “khoán trắng” cho “một ban hoặc vài người” cán bộ phụ trách công tác dân vận (chuyên trách hoặc kiêm nhiệm) “đơn thương độc mã” thực hiện.

        “Khéo”, “mở” thì dân vận mới “không để sót một người dân nào” “việc gì cũng thành công”

        Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “không để sót một người dân nào” khi định nghĩa “dân vận” trước hết nhằm phát huy tối đa khả năng của “mỗi một người dân” cùng chung tay đi đến gộp thành “lực lượng của toàn dân”, phát huy sức mạnh tổng thể.

        Ngày nay, dân tộc Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển giàu mạnh và thịnh vượng. Ưu tiên trên hết của kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Để hiện thực hóa các mục tiêu đó, công tác dân vận phải đáp ứng khát khao cống hiến của hiền tài, nguyên khí quốc gia trong mọi tầng lớp nhân dân; khơi dậy và lan tỏa trên phạm vi rộng khắp khát vọng phát triển đất nước của người dân và doanh nghiệp, cả trong nước và ngoài nước. Đồng thời, công tác dân vận theo phương châm “không để sót một người dân nào” trong kỷ nguyên mới và bản tính nhân văn chế độ xã hội chủ nghĩa, “không ai bị bỏ lại phía sau”, nhất là “quan tâm đến các đối tượng yếu thế trong xã hội”[6]. Như vậy, “không để sót một người dân nào” theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phải thành phương châm “người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm”.

        “Không để sót một người dân nào” và “việc gì cũng thành công” còn là thước đo cuối cùng của “dân vận khéo” và phân loại với “dân vận kém”. Học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung “lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên”[7]. Lượng hóa và cụ thể tiêu chí này, năm 2021, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 76/NQ-CP, đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 phải đạt mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp về giải quyết thủ tục hành chính đạt tối thiểu 95%. Từ đó cho thấy, với công tác dân vận thì nội dung đúng, cách làm hay, chỉ mới là tiền đề, điều kiện cần chứ chưa đủ, chưa có ý nghĩa nếu thiếu tính hiệu quả. Nói cách khác, nếu hiệu quả thật sự của công tác dân vận chưa đo lường được, “mỗi một người dân” còn bị bỏ sót hay chưa hài lòng, tự giác tin và làm theo cán bộ, theo chủ trương đường lối của Đảng thì dân vận chưa khéo, thậm chí chỉ mang tính chất “phông bạt”, “diễn”, đối phó một cách vô cảm hoặc là kiểu làm việc “khoét chân cho vừa giầy” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng phê phán trước đó trong “Sửa đổi lối làm việc”.

        Muốn “không để sót một người dân nào” và “việc gì cũng thành công”, người cán bộ cách mạng phải có sự hồng thắm, chuyên sâu, tâm trong, ý sáng và gần dân, trọng dân, học dân; phải toàn diện “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi”; tránh “chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh” mà phải luôn thống nhất “miệng nói, tay làm” - kết hợp giữa tuyên truyền, giải thích với việc làm, nhất là giúp đỡ nhân dân bằng “thật thà nhúng tay vào việc”, “bày vẽ cho dân”, “thi đua làm” và “làm kiểu mẫu cho dân”, “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.... thì mới hiểu, cảm hóa và quy tụ được nhân dân.

        Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là điển hình và mẫu mực của “dân vận khéo”. Người đến với dân gần gũi, chân tình như về với người thân, không có sự cách biệt. Người lội xuống ruộng cầm dây gầu tát nước, đạp guồng nước cùng dân. Đến thăm cơ sở hay đơn vị, Người không chỉ dừng lại ở phòng khách hay hội trường và với lãnh đạo mà thường xem tận nơi nhà bếp, giếng nước, nơi vệ sinh và tận tình thăm hỏi từng người lao động bình thường nhất. Người đến với Nhân dân để động viên phong trào, biểu dương thành tích và cố gắng của đồng bào, đồng thời, cũng nghiêm khắc phê bình những khuyết điểm cần phải sửa chữa, để mỗi người đều tốt hơn lên, công việc cũng đạt chất lượng tốt hơn…

        “Không để sót một người dân nào” cũng là phương châm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hành tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc với tinh thần triệt để nhất. Người từng ghi nhớ: Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ. Có như vậy, công tác dân vận mới sâu rộng và đi vào khơi dậy, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và tự giác của từng con người về tài trí, sức lực, tiền của… góp cho công việc chung. Dân vận không phải chỉ giáo dục, động viên chung chung, mà phải hiểu rõ năng lực, yêu cầu, nguyện vọng, hoàn cảnh cụ thể mỗi con người, từ đó “tích tiểu” tiềm lực từng người dân để “thành đại”, bởi lẽ chân lý đã chỉ ra rằng tỷ lệ quần chúng tham gia cách mạng tăng lên thường tỷ lệ thuận với sự thành công của cách mạng. Ngược lại, nếu không làm tốt công tác dân vận, không nắm bắt được tình hình và giải quyết rốt ráo thì không những không phát huy được sức mạnh của toàn dân mà còn bị kẻ thù chống phá, xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đến lúc ấy dù việc bé đến mấy cũng không thành công, nguy cơ một đốm lửa nhỏ có thể đốt cháy cả cánh rừng là có thật.

        Công tác dân vận hợp nhất biện chứng với công tác tuyên giáo trong kỷ nguyên mới

        Bước vào kỷ nguyên mới - đây là năm đầu tiên của công cuộc sắp xếp, tinh gọn bộ máy, trong đó, có sự hợp nhất của ban ngành Tuyên giáo với Dân vận. Sự kết hợp chặt chẽ giữa tuyên giáo với dân vận không chỉ là sự đổi mới về tổ chức mà còn tạo nên sức mạnh tổng hợp, kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền với vận động, giữa tư tưởng và hành động, giữa “đúng và khéo”, qua đó tạo sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Tuy nhiên, kỷ nguyên mới cũng được dự báo phải đối mặt với sự gia tăng các biến động tư tưởng, văn hóa - xã hội đa chiều, phức tạp. Do vậy, bản thân đội ngũ cán bộ ngành tuyên giáo và dân vận trước hết cần “khéo” tìm ra những lộ trình, giải pháp phù hợp để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Sứ mệnh của họ vừa phải là lực lượng xung kích đi đầu, nòng cốt trên mặt trận tư tưởng, vận động quần chúng của Đảng; vừa phải là những chiến sĩ kiên trung, quả cảm và người đóng vai trò nuôi dưỡng, lan tỏa, truyền cảm hứng về sự đoàn kết, nỗ lực kiên cường thực hiện khát vọng dân tộc và niềm tin phát triển đất nước.

        Tại buổi làm việc với Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương ngày 11/6/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh những nhiệm vụ cấp thiết của cán bộ làm công tác tuyên giáo, dân vận là cần tập trung toàn lực để tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân “hiểu đúng, nắm rõ và đồng thuận cao” với các chủ trương, chính sách về tinh gọn, sắp xếp tổ chức bộ máy, sáp nhập đơn vị hành chính, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 2013 và hoàn thiện thể chế pháp luật...; cần sớm đánh giá hiệu quả, nghiên cứu và chỉ đạo xây dựng các nền tảng truyền thông về Việt Nam tới bạn bè quốc tế[8].

        Bước vào kỷ nguyên mới, vai trò của khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số càng trở nên thiết yếu và quan trọng, song chúng không thể và mãi mãi không thể thay thế con người và những giá trị tư tưởng nền tảng, cốt lõi. Chính vì vậy, Tổng Bí thư Tô Lâm nhắc nhở đội ngũ làm công tác tuyên giáo và dân vận trong kỷ nguyên mới phải luôn lấy tư tưởng Hồ Chí Minh, những giá trị cốt lõi của Đảng làm cơ sở để tuyên truyền, thuyết phục, vận động quần chúng nhân dân tin tưởng, đồng thuận và chấp hành những chủ trương, quyết sách của Đảng và sự lãnh đạo, điều hành của cơ quan nhà nước các cấp[9].

        Tóm lại, có thể nói những tư tưởng về “dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn mang tính thời sự và tiếp tục soi đường cho công tác dân vận của Đảng trong kỷ nguyên mới. Học tập Người, mỗi cán bộ, đảng viên cần xác định bản thân luôn có vai trò của một cán bộ làm công tác dân vận và phấn đấu “dân vận khéo”, góp phần củng cố và tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân./.

 

[1]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật. Hà Nội, tr.234.

[2]. Hồ Chí Minh (2011), Sđd, t.6, tr.234.

[3]. Hồ Chí Minh (2011), Sđd, t.6, tr.233.

[4]. Hồ Chí Minh (2011), Sđd, t.5, tr.288.

[5]. Hồ Chí Minh (2011), Sđd, t.6, tr.233.

[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật. Hà Nội, tr.192.

[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, t.1, tr.192.

[8]. Dẫn theo: https://thanhuytphcm.vn/tin-tuc/tong-bi-thu-to-lam-ket-hop-hai-hoa-bien-chung-cong-tac-tuyen-giao-va-dan-van-1491937145

[9]. Dẫn theo: https://thanhuytphcm.vn/tin-tuc/tong-bi-thu-to-lam-ket-hop-hai-hoa-bien-chung-cong-tac-tuyen-giao-va-dan-van-1491937145