Thứ nhất, C.Mác đã chỉ ra quy luật phát triển của xã hội loài người thực chất là sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội, thông qua cách mạng xã hội. Sự thay thế đó là một quá trình lâu dài và được quyết định bởi những mâu thuẫn nội tại của các hình thái kinh tế - xã hội ấy. Trong khi khẳng định tính tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác cũng chứng minh tính tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội mà hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa nhất thiết phải chuyển sang, đó là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong đó giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa. Sự vận động, phát triển, thay thế các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao là quy luật tất yếu của lịch sử xã hội loài người, chứ không phải của riêng một dân tộc hay quốc gia nào.
Cần phải thừa nhận rằng, trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa tư bản đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ. Song, bản chất bóc lột người lao động không hề thay đổi. Bởi vì:
Trong xã hội đó, lợi nhuận là mục tiêu tối thượng, chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột xã hội. Điều này dẫn đến tình trạng 1% dân số, nhưng chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới ¾ nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện đại chủng chủ yếu.
Quyền lực trong xã hội đó thuộc về thiểu số giàu có và nhằm phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Do đó, đây là xã hội dân chủ hình thức. Điều này dẫn đến sự khủng hoảng nhiều mặt từ khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế đến khủng hoảng về mặt y tế, xã hội lẫn chính trị trong lòng xã hội, ảnh hưởng đến đời sống của đa số người dân nhất là người lao động.
Đối chiếu với lịch sử phát triển xã hội loài người cũng như thực tiễn phát triển xã hội của nhân loại ngày nay, có thể thấy, sự tổng kết của C.Mác là hoàn toàn đúng đắn, vượt xa thời đại mà ông sống về tư duy cũng như tầm nhìn. Quan điểm duy vật lịch sử cùng với lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác là nền tảng trong việc hình thành nhận thức về xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại và xã hội xã hội chủ nghĩa với đầy đủ những đặc điểm về bản chất, mâu thuẫn, xu hướng vận động, phát triển cũng như con đường đưa chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trở thành hiện thực.

Thứ hai, thực ra, ở những góc độ nhất định, cách tiếp cận theo nền văn minh và tiếp cận theo hình thái kinh tế - xã hội không mâu thuẫn nhau. Hơn nữa, cách tiếp cận theo nền văn minh còn có ý nghĩa nhất định đối với việc nhận thức lịch sử xã hội và có thể coi là sự bổ sung cho cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội khi xem xét thời đại hiện nay. Dù tiếp cận theo hình thức nào, nền văn minh hay hình thái kinh tế - xã hội, thì cũng đều phải coi lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định sự phát triển, thay thế nhau của các chế độ xã hội.
Bản thân Ph. Ăngghen cũng từng nghiên cứu sự phát triển của các nền văn minh, khi nhất trí với Moocgăng phân chia lịch sử thành ba giai đoạn: mông muội, dã man và văn minh (tức là từ khi xã hội phân chia thành giai cấp). Còn C.Mác, trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, cũng đã luận giải vai trò quyết định của lực lượng sản xuất trong việc thay đổi các chế độ xã hội.
Tuy nhiên, cách tiếp cận theo nền văn minh không thể thay thế cho cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội, vì tính chất phiến diện của nó. Cách tiếp cận theo nền văn minh tuyệt đối hóa vai trò của lực lượng sản xuất, bỏ qua vai trò các quan hệ xã hội, bỏ qua mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nên không chỉ xóa nhòa ranh giới thực tế giữa các chế độ xã hội khác nhau, mà còn không chú ý đến nguồn gốc các động lực của sự vận động phát triển lịch sử, lảng tránh các vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp và chế độ chính trị.
Bản chất khoa học, cách mạng của học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của Chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện ở tính tất yếu khách quan của sự ra đời học thuyết, ở việc khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở quyết định sự tồn tại và phát triển lịch sử xã hội loài người, ở quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, ở mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, ở việc khẳng định sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội là quá trình lịch sử-tự nhiên...
Do vậy, không thể lấy cách tiếp cận khác, ví như cách tiếp cận lịch sử các nền văn minh, các làn sóng văn minh, hoặc cách tiếp cận của sự phát triển khoa học, công nghệ, kỹ thuật... để thay thế học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của Chủ nghĩa Mác - Lênin , mặc dù trong các cách tiếp cận của các học thuyết ngoài mác-xít có một số yếu tố khoa học, chúng ta có thể chắt lọc, tiếp thu, kế thừa trên tinh thần phê phán để phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, làm giàu có Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ ba, những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại ngày nay với sự ra đời của người máy đã thay thế không chỉ những công việc nặng nhọc, những hoạt động cơ bắp, mà còn có thể thay thế cho cả những hoạt động tinh vi, phức tạp của con người. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là khoa học và công nghệ hiện đại trở thành yếu tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ đó người lao động trở thành yếu tố thứ yếu, đứng bên ngoài quá trình sản xuất. Dù có trở thành lực lượng sản xuất quan trọng, khoa học - công nghệ cũng chỉ là một bộ phận của lực lượng sản xuất. Trong lực lượng sản xuất, xét đến cùng, yếu tố quyết định vẫn là con người, mặc dù khoa học - công nghệ nâng cao địa vị, vị thế, vai trò, sức mạnh của con người.
Về thực chất, khoa học và công nghệ trước hết là sản phẩm của quá trình nhận thức, sản phẩm của sự phát triển trí tuệ của con người. Dù khoa học và công nghệ hiện đại đến đâu cũng chỉ là sản phẩm của con người, hoạt động của nó phụ thuộc vào những chương trình mà con người đã lập ra, đã cài đặt vào máy tính điện tử và người máy công nghiệp. Máy vi tính có thể tính nhanh và chính xác gấp triệu lần con người; rôbốt, người máy có thể làm được những việc mà con người không thể làm nổi, nhưng những cái đó suy cho cùng đều do con người chế tạo ra, con người điều khiển chúng, nếu thiếu con người, thì tự bản thân chúng cũng không thể phát huy tác dụng.
Do vậy, trong bất cứ thời đại nào, kể cả thời đại của khoa học và công nghệ hiện đại, người lao động vẫn là nhân tố đóng vai trò quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vì thế, quan điểm của C.Mác về vai trò quyết định của người lao động đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất vẫn còn nguyên giá trị. Những nhà tư tưởng tuyệt đối hóa, thổi phồng, khuếch đại vai trò của khoa học - công nghệ, v.v..là phủ nhận vai trò của người lao động, xét đến cùng, chỉ nhằm mục đích phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác.
Thứ tư, chúng ta cần phải nhận thức rằng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô không phải do sai lầm của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, chủ nghĩa xã hội cũng không phải là “con đường sai lầm” khiến nhân loại đi vào ngõ cụt như các thế lực thù địch vẫn quy chụp và rêu rao. Đây chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội cụ thể chứ không phải là sự sụp đổ của lý luận về hình thái kinh tế - xã hội. Hiện nay một số nước trên thế giới vẫn đang tiếp tục vận dụng lý luận này để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội như Trung Quốc, Việt Nam... Do đó, những luận điệu cho rằng, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do sai lầm từ lý luận về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là những luận điệu phiến diện, cố tình quy chụp.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là tất yếu khách quan. Về mặt lý luận, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra quy luật tất yếu của nhân loại trong việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Về mặt thực tiễn, cách mạng Việt Nam chỉ rõ tính tất yếu của mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Khi đất Việt Nam đang chìm trong cảnh áp bức, nô lệ, bế tắc trong con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã tìm thấy chủ nghĩa Mác - Lênin - con đường giải phóng dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người cũng khẳng định chỉ có con đường cách mạng vô sản mới thực hiện được sự nghiệp giải phóng dân tộc, xoá bỏ vĩnh viễn được áp bức, bất công, giải phòng con người hoàn toàn và triệt để.
Đồng thời, trên thực tế nhiều nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam trong quá trình đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Đây là minh chứng thuyết phục, thể hiện tính đúng đắn trong việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phản bác lại các luận điệu sai trái của thế lực phản động. Những luận điệu lợi dụng sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin càng biểu hiện rõ âm mưu, ý đồ đen tối của các thế lực thù địch mà thôi
