Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam, với tinh thần "sẵn sàng chiến đấu, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", đã lập nhiều chiến công vang dội, góp phần bảo vệ vững chắc hậu phương xã hội chủ nghĩa miền Bắc và chi viện tiền tuyến lớn miền Nam

Chiến đấu bảo vệ vùng biển Vịnh Bắc Bộ (1964-1965)

Trước những thất bại liên tiếp của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam, Mỹ đẩy mạnh hoạt động phá hoại miền Bắc. Để tạo cớ đánh phá miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện cho miền Nam, Mỹ đã dựng nên “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” (1964), đây là sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam.

Vịnh Bắc Bộ là khu vực chiến lược trọng yếu về quân sự, kinh tế và chính trị của Việt Nam. Đây là cửa ngõ nối liền miền Bắc Việt Nam với Biển Đông, nơi tập trung các tuyến hàng hải nội địa và quốc tế, đồng thời là vùng giáp ranh trực tiếp với căn cứ quân sự của Mỹ tại Biển Đông, đặc biệt là Hạm đội 7.

Ngày 2/8/1964, tàu khu trục USS Maddox của Hải quân Mỹ đã xâm nhập sâu vào vùng biển Vịnh Bắc Bộ, gần đảo Hòn Mê, Thanh Hóa. Trước hành vi xâm phạm trắng trợn này, ba tàu phóng lôi của Hải quân Nhân dân Việt Nam (Tàu 333, 336 và 339) đã anh dũng xuất kích ngăn chặn, nổ súng đánh trả quyết liệt và gây thiệt hại cho tàu địch: “Ngày 2 tháng 8 năm 1964, các tàu phóng lôi của ta đã tấn công tàu khu trục USS Maddox khi tàu này vi phạm chủ quyền vùng biển Việt Nam, buộc nó phải rút lui”[1].

Tiếp đó, ngày 4/8/1964, Mỹ tuyên bố tiếp tục bị “tấn công” trên biển bởi Hải quân Việt Nam, mặc dù sau này chính các tài liệu nội bộ của Mỹ cũng thừa nhận sự kiện này không hề xảy ra. Đây là cái cớ để chính quyền Lyndon B. Johnson thúc đẩy Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, cho phép Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc Việt Nam. “Không có vụ tấn công nào xảy ra vào ngày 4/8. Những gì mà tàu USS Turner Joy và USS Maddox báo cáo chỉ là sai sót do thời tiết xấu và sự nhầm lẫn thiết bị. Tuy nhiên, chính quyền Johnson vẫn sử dụng sự kiện này để hợp pháp hóa hành động quân sự”[2].

Bộ đội ta bên xác máy bay phản lực A4D, do Trung uý Hải quân Mỹ Everett Alvarez lái, bị bắn hạ tại Cửa Lục, thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh) ngày 5/8/1964 (Ảnh tư liệu TTXVN) 

Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson đã tận dụng sự kiện để yêu cầu Quốc hội thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ (7/8/1964), cho phép ông toàn quyền sử dụng lực lượng quân sự chống lại “mọi hành vi gây hấn”. Ngay sau đó, chiến dịch “Pierce Arrow” (Mũi Tên Xuyên) được phát động: 64 lượt máy bay Mỹ đánh phá hai căn cứ hải quân và sân bay của Việt Nam tại Vinh, Bến Thủy, Hòn Gai, Lạch Trường… Như vậy, vào đầu tháng 8/1964, tại vùng biển Vịnh Bắc Bộ - khu vực thuộc chủ quyền lãnh hải không thể tranh cãi của Việt Nam - đã diễn ra một sự kiện quân sự quan trọng, đánh dấu sự khởi đầu chính thức của chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ đối với miền Bắc Việt Nam.

Từ năm 1965, sau sự kiện Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam và leo thang đánh phá miền Bắc bằng không quân, hải quân Mỹ cũng tăng cường các hoạt động phong tỏa đường biển, thăm dò và phá hoại các tuyến tiếp tế trên biển. Trong hoàn cảnh đó, Hải quân Nhân dân Việt Nam đã được giao trọng trách không chỉ bảo vệ vùng biển và đảo, mà còn bảo vệ các cảng biển, các tuyến vận tải ven biển và chủ động đánh trả các hoạt động gây hấn của địch.

Bảo đảm tuyến vận tải đường biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển

Cuối thập niên 1950, cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ, yêu cầu về vũ khí, trang bị và lực lượng chi viện từ miền Bắc ngày càng cấp bách. Trong khi đó, tuyến đường Trường Sơn (đường bộ) ngày càng bị địch kiểm soát chặt chẽ. Từ thực tiễn đó, Đảng và Quân đội ta đã chủ trương mở thêm tuyến vận tải chiến lược trên biển, nhằm tạo thế phối hợp hai hướng chi viện. “Tuyến vận tải bí mật trên biển là một sáng tạo chiến lược trong nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam, góp phần làm thay đổi cục diện chiến trường miền Nam”[3].

Đường Hồ Chí Minh trên biển là tuyến vận tải chiến lược do Hải quân Nhân dân Việt Nam tổ chức từ năm 1961 đến 1975, nhằm bí mật vận chuyển vũ khí, trang bị, cán bộ từ miền Bắc vào miền Nam qua đường biển, song song với tuyến đường Trường Sơn trên bộ. Đây là một sáng kiến độc đáo, sáng tạo, thể hiện trí tuệ và bản lĩnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong điều kiện chiến tranh hiện đại. “Việc hình thành tuyến vận tải trên biển là một sáng tạo đặc biệt trong nghệ thuật hậu cần chiến lược, thể hiện sự nhạy bén và linh hoạt của Đảng và Quân ủy Trung ương trước tình hình mới” [4].

Ngày 23/10/1961, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn 759, trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân, với nhiệm vụ đặc biệt là tổ chức vận chuyển vũ khí, hàng hóa bằng đường biển vào Nam phục vụ kháng chiến. Đoàn 759 được giao nhiệm vụ tổ chức các chuyến tàu bí mật vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam, “Đoàn 759 chính là lực lượng đặt nền móng cho đường Hồ Chí Minh trên biển. Với những con tàu không số, họ đã vượt qua mọi phong tỏa để tiếp sức cho chiến trường miền Nam”[5].

Đến năm 1966, đơn vị này phát triển thành Lữ đoàn 125 Hải quân – lực lượng chuyên trách đảm nhiệm tuyến vận tải biển cho đến ngày giải phóng miền Nam. Tuyến đường này đi qua vùng biển cực kỳ nguy hiểm: từ Hải Phòng – Nghệ An, Quảng Bình đến vùng ven biển Trung Bộ, rồi vào tới Cà Mau, Rạch Giá. Mỹ và chính quyền Sài Gòn dùng cả hải quân, máy bay trinh sát, radar và hạm đội 7 để giám sát tuyến biển, nhưng vẫn không thể ngăn được hoạt động của các “tàu không số”.

Khác với các tàu vận tải thông thường, “tàu không số” là loại tàu đặc biệt, không phát tín hiệu vô tuyến, không có giấy tờ đăng ký để tránh sự phát hiện của địch. Vỏ tàu thường được ngụy trang như tàu cá, tàu đánh lưới hay tàu vận tải tư nhân. Các thủy thủ không chỉ là lính hải quân, mà còn là những chiến sĩ biệt động, cảm tử, sẵn sàng hy sinh để giữ bí mật cho tuyến đường. “Tàu không số không chỉ là phương tiện vận tải, mà còn là biểu tượng cho trí tuệ quân sự và tinh thần sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc của Hải quân Nhân dân Việt Nam”[6]. “Tàu không số là biểu tượng của chiến tranh du kích trên biển – vận dụng linh hoạt yếu tố bí mật, bất ngờ và lòng quả cảm của người lính biển” [7].

Một con "tàu không số" của Đoàn 759 chở vũ khí chi viện miền Nam (Ảnh tư liệu)

Đường Hồ Chí Minh trên biển có 5 tuyến chính, đi qua nhiều vùng biển hiểm trở như: Nam Định - Cà Mau, Thanh Hóa - Vũng Rô, Nghệ An - Côn Đảo… Những chuyến đi thường kéo dài 7-20 ngày, trong điều kiện đêm tối, bão tố, bủa vây của tàu chiến và máy bay Mỹ. Những chuyến tàu huyền thoại: Tàu Phương Đông 1 (1962), đây là chuyến tàu đầu tiên đưa 30 tấn vũ khí cập Vàm Lũng (Cà Mau) an toàn, mở ra tuyến vận tải mới; Tàu Phương Đông 2 (1965) do thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy, bị lộ khi vào Bến Tre. Thuyền trưởng và thủy thủ đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, tự hủy tàu để giữ bí mật cho tuyến đường. “Chiến công của tàu Phương Đông 2 là bản anh hùng ca bi tráng của lòng trung thành, quyết tử với tổ quốc” [8]; Tàu C41 (1967) bị phát hiện ở vùng biển Cà Mau, tổ lái cho tàu tự hủy. Nhiều người hy sinh, một số được dân cứu giúp thoát khỏi vòng vây địch. “Những con tàu không trở về, những người lính không tên tuổi đã tạo nên huyền thoại về một con đường tiếp vận giữa biển khơi, xứng đáng đi vào lịch sử dân tộc như một bản anh hùng ca” [9].

Tuyến vận tải chiến lược này là con đường sinh tử nối liền hậu phương miền Bắc với chiến trường miền Nam, trong đó có nhiều hải trình hiểm trở, bị địch giám sát chặt chẽ. Tuy nhiên, bằng lòng dũng cảm và tinh thần sáng tạo, Hải quân Việt Nam đã tổ chức hàng trăm chuyến tàu vận tải vượt biển thành công, vận chuyển vũ khí, lương thực, thuốc men cho miền Nam. Những chiến công trên tuyến đường này đã làm nên kỳ tích, gắn liền với tên tuổi của các con “tàu không số” huyền thoại.

Từ năm 1961 đến 1973, lực lượng “tàu không số” đã thực hiện: 1.804 chuyến đi, vận chuyển hơn 4.000 tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men, cùng hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ. Trực tiếp chi viện các chiến trường B2, Khu 5, Trị - Thiên, tạo thế liên hoàn hậu phương - tiền tuyến. Hình thành các bến bãi bí mật, từ Vũng Rô (Phú Yên) đến Rạch Gốc (Cà Mau). Góp phần phá vỡ thế phong tỏa của Mỹ - ngụy từ hướng biển, mở rộng không gian chiến lược cách mạng. “Đường Hồ Chí Minh trên biển là kỳ tích hiếm có trong lịch sử chiến tranh hiện đại, vừa thể hiện nghệ thuật quân sự, vừa kết tinh tinh thần quyết thắng của cả dân tộc” [10].

 

[1] Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam (1955–2005), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 213–216.

[2] US Department of Defense: Pentagon Papers – The Defense Department History of United States Decisionmaking in Vietnam, Beacon Press, 1971, tr. 45–46.

[3] Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam (1955–2005), Sđd, tr.260.

[4] Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam (1955–2005), Sđd, tr.263.

[5] Nguyễn Việt Chiến: Đường Hồ Chí Minh trên biển, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.29.

[6] Trần Đức: Tàu không số - Huyền thoại một con đường, Nxb. Thanh Niên, 2010, Hà Nội, tr.41.

[7] Nguyễn Việt Chiến: Đường Hồ Chí Minh trên biển, Sđd, tr.49.

[8] Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam (1955–2005), Sđd, tr.254.

[9] Nguyễn Việt Chiến: Đường Hồ Chí Minh trên biển, Sđd, tr.102.

[10] Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam (1955–2005), Sđd, tr.319.