Cuối năm 1964, đầu năm 1965, miền Bắc đã chuẩn bị sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ. Nhờ sự chuẩn bị đó, lực lượng phòng không – không quân miền Bắc đã đánh thắng địch ngay từ ngày đầu, trận đầu

Chủ trương của Quân chủng, sẵn sàng chiến dấu và chiến thắng

Sau khi Mỹ dùng không quân đánh phá miền Bắc ngày 05/8/1964, tháng 9/1964, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định: mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc là chiều hướng mà Jhonson và tập đoàn cầm quyền Mỹ đang tính toán và ra sức chuẩn bị. Quân và dân ta phải hết sức đề phòng.

Tháng 11/1964, Hội nghị Quân ủy Trung ương ra nghị quyết chỉ rõ: “Đối với miền Bắc, Mỹ sẽ tiếp tục hành động khiêu khích, phá hoại, xâm lược với quy mô lớn hơn. Những hành động xâm lược, phá hoại của chúng có thể bao gồm việc Mỹ ném bom xâm phạm vùng trời và bắn phá những mục tiêu quân sự, kinh tế và chính trị”. Quân ủy Trung ương cũng đề ra các chủ trương, biện pháp chỉ đạo tăng cường sẵn sàng chiến đấu, khẩn trương xây dựng các lực lượng vũ trang trên miền Bắc, đặc biệt là bộ đội Phòng không - Không quân.

Ngày 26/01/1965, Đảng ủy Quân chủng Phòng không - Không quân tiến hành hội nghị Đảng ủy. Hội nghị đề ra nhiệm vụ lãnh đạo Quân chủng năm 1965 là: “Tích cực thực hiện nhiệm vụ trung tâm thường xuyên sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, huấn luyện về sẵn sàng chiến đấu nổi lên hàng đầu, bảo đảm bắn rơi máy bay địch, bảo vệ vùng trời miền Bắc, nhất là các mục tiêu trọng điểm và hoàn thành các nhiệm vụ khác”.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, lãnh đạo và chỉ huy các cấp phải quán triệt đường lối, quan điểm, tư tưởng quân sự của Đảng, vận dụng sáng tạo 5 nguyên tắc chỉ đạo tác chiến của Quân chủng trong chiến đấu và xây dựng để chủ động đánh thắng ngay từ trận đầu, đánh thắng liên tục, càng đánh càng mạnh, càng trưởng thành…, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong cuộc chiến tranh nhân dân trên mặt trận đối không.[1]

Pháo cao xạ

Pháo cao xạ 37 mm (Ảnh tư liệu)

Bố trí lực lượng, xây dựng thế trận phòng không

Được sự chỉ đạo và giúp đỡ của Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Quân chủng tiến hành điều chỉnh lực lượng phòng không trên các khu vục trọng yếu của miền Bắc, tăng cường lực lượng bảo vệ các mục tiêu yếu địa, cơ động các trung đoàn pháo phòng không dự bị tạo thành vùng hỏa lực bên ngoài bảo vệ Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng; điều chỉnh trang bị và điều động lực lượng thành lập Trung đoàn pháo phòng không 212 thành đơn vị dự bị mới và rút Trung đoàn pháo phòng không 234 ở chiến trường Lào về nước. Bộ Tư lệnh Quân chủng đề nghị với Bộ Tổng Tham mưu điều các tiểu đoàn pháo phòng không 4, 6, 14 của các Sư đoàn Bộ binh 324, 341, 325 vào hoạt động ở phía tây Quân khu 4, bố trí Trung đoàn pháo phòng không 214 - Quân khu 4 tăng cường bảo vệ thành phố Vinh, Trung đoàn pháo phòng không 213 - Quân khu 3 hoạt động ở ven biển Ninh Bình. Pháo phòng không đã tăng lên 12 trung đoàn và hai tiểu đoàn độc lập, trang bị các loại pháo cao xạ cỡ nòng từ 37 đến 100 mm và 5 trung đội súng máy 14,5 mm. Theo kế hoạch của Bộ Tổng Tham mưu, các lực lượng phòng không của các đơn vị bộ binh và của Quân chủng Hải quân cùng các lực lượng pháo, súng máy của bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ được tăng cường xây dựng ở các thành phố, thị xã và những khu công nghiệp trọng điểm, tạo thành thế trận chiến tranh nhân dân trên mặt trận đối không.

Sau ngày bộ đội không quân ta về nước (ngày 6/8/1964), Bộ Tư lệnh Quân chủng tập trung chỉ đạo khẩn trương xây dựng và tổ chức chuẩn bị chiến đấu cho Trung đoàn không quân tiêm kích 921, trang bị máy bay MiG-17A trên sân bay Nội Bài. Sự xuất hiện của không quân tiêm kích làm tăng khả năng cơ động, bổ sung và mở rộng vùng hỏa lực của lực lượng phòng không ba thứ quân. Cũng trong thời gian này, bộ đội ra đa đã có ba trung đoàn ra đa cảnh giới gồm 22 đại đội, được bố trí trên các địa bàn chiến lược, trọng yếu của miền Bắc.

Chiến đấu thắng lợi

Ngày 7/2/1965, Mỹ sử dụng 73 máy bay cất cánh từ 3 tàu sân bay (USS Ranghe, Coral Sea và Hancock) tiến hành các đợt không kích các mục tiêu ở miền Bắc Việt Nam. Sau đợt không kích đầu không đạt hiệu quả, từ ngày 8 đến 11/2, Mỹ triển khai Kế hoạch Mũi lao lửa I và II, sử dụng các máy bay từ tàu sân bay không kích các mục tiêu ở khu vực Đồng Hới. Sau 3 ngày chiến đấu, quân dân Quảng Bình, Vĩnh Linh đã bắn rơi 14 máy bay, tiêu diệt và bắt sống giặc lái. Kế hoạch “Mũi lao lửa” của Mỹ bị thất bại.

Sau thất bại của Kế hoạch “Mũi lao lửa”, Mỹ quyết định mở Chiến dịch “Sấm rền” với âm mưu trả đũa liên tục, ném bom ồ ạt các mục tiêu trên miền Bắc. Ý đồ của địch là sẽ đánh khoảng 3 tháng vào các mục tiêu ở Khu 4, sau đó đưa vấn đề “hòa bình thương lượng” thì Bắc Việt Nam sẽ phải chấp nhận. Ngày 2/3/1965, ngày đầu tiên của chiến dịch Sấm rền, trong vòng hơn 2 tiếng đồng hồ, lực lượng PK trên địa bàn Quân khu 4 đã bắn rơi 5 máy bay Mỹ.

Từ ngày 14 đến 17/3/1965, địch đã sử dụng 160 lần chiếc máy bay đánh lấn ra vĩ tuyến 19, mở rộng đánh phá vào các doanh trại, kho tàng của quân đội nhưng bị lực lượng phòng không ba thứ quân ta đánh trả máy bay địch quyết liệt. Sau 3 ngày đánh phá bị thất bại, Mỹ buộc phải ngừng đánh phá để đánh giá lại tình hình và tìm cách đối phó.

Giới cầm quyền Mỹ cho rằng, trở ngại chính cho các phi vụ trước hết là hệ thống ra đa của miền Bắc, nên quyết định mở đợt đánh phá vào các trận địa ra đa ở nam Quân khu 4 nhằm “đập tan hệ thống thần kinh điện tử của Bắc Việt Nam”.

Từ ngày 23 đến 27/3/1965, Không quân Mỹ sử dụng nhiều tốp máy bay ném bom vào trận địa của 3 đại đội ra đa 11, 12 và 13 ở Đồng Hới và Hà Tĩnh. Kết quả, bộ đội ta đã bắn rơi 7 máy bay, đồng thời, ta đã tìm ra được hình thức chiến thuật mới là “phục kích nhử địch” vào khu vực chuẩn bị sẵn để tiêu diệt.

Do không thể khuất phục Bắc Việt Nam trong vòng vài ba tháng, đế quốc Mỹ chuyển hướng Chiến dịch “Sấm rền” từ “bẻ gãy ý chí của Bắc Việt Nam” sang “cắt đứt luồng tiếp tế người và hàng từ miền Bắc vào miền Nam”. Ngày 1/4/1965, Mỹ tiến hành đánh phá hàng loạt cầu, phà ở phía nam Hà Nội, từ vĩ tuyến 20 trở vào trước mùa mưa ở Bắc Việt Nam.

Trước sự thay đổi mới của địch, sau khi đánh giá tình hình, Bộ Tư lệnh Quân chủng tiến hành điều chỉnh lực lượng để bảo vệ tuyến giao thông Đường số 1  và tập trung bảo vệ cầu Hàm Rồng. Tại Hàm Rồng, bố trí 2 đại đội pháo 57 mm của Trung đoàn 234, hai đại đội pháo 37 mm của Quân khu 3, một đại đội 14,5 mm của Sư đoàn bộ binh 304 cùng lực lượng ta trên tàu của hải quân đậu trên sông Mã. Đối với một mục tiêu trọng yếu như Hàm Rồng, hỏa lực bảo vệ như vậy là mỏng, nhưng ta cũng không còn lực lượng để tăng cường. Trên cơ sở phân tích tình hình địch, ta, Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân chủng quyết định đưa Trung đoàn Không quân 921 vào chiến đấu.

Ngày mùng 3 và 4/4/1965, lần đầu tiên không quân ta xuất kích chiến đấu và giành thắng lợi vang dội trên bầu trời Hàm Rồng (Thanh Hoá). Hai biên đội MiG-17 đã bắn rơi 2 máy bay F-8U (ngày 3/4), 2 máy bay F-105D (ngày 4/4) và ngày 3/4/1965 đã trở thành Ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Không quân Nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, đối đầu với lực lượng không quân thiện chiến nhất thế giới, ta cũng phải chịu tổn thất lớn, 5 máy bay và 3 phi công hy sinh.

Trong 2 ngày chiến đấu, lực lượng bảo vệ cầu cũng anh dũng chiến đấu, bắn rơi 7 máy bay địch. Các trận đánh ngày 3 và 4/4 không những có ý nghĩa quan trọng bước đầu đánh thắng âm mưu đánh phá giao thông của địch, mà về phía ta, còn là một trận đánh hiệp đồng nhiều lực lượng và thắng lợi lớn. Từ đây, mở đầu cho “mặt trận trên không” và nghệ thuật tác chiến hiệp đồng giữa lực lượng phòng không ba thứ quân với khoogn quân tiêm kích được phát triển lên một bước mới, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh phá hoại của kẻ thù.

Sau trận Hàm Rồng, địch vẫn tiếp tục đánh phá giao thông vận tải từ vĩ tuyến 20 trở vào nhưng với cường độ thấp, đánh vào ban đêm là chủ yếu. Từ cuối tháng 5, thấy đánh cầu không mang lại hiệu quả, địch dùng tốp nhỏ, chiếc lẻ vừa trinh sát phát hiện vừa đánh phá các đoàn xe cơ giới, trạm trung chuyển, các kho tạm ở dọc đường. Để đối phó với chiến thuật mới của địch, các phương tiện vận chuyển của ta chuyển sang hoạt động chủ yếu vào ban đêm, tổ chức từng cung đoạn vận chuyển thích hợp. Đối với những đoàn xe quan trọng, sử dụng các đơn vị pháo cỡ nhỏ của lực lượng phòng không tại chỗ đi cùng, lực lượng pháo phòng không của Quân chủng ngoài tập trung bảo vệ các trọng điểm còn phân tán một bộ phận lực lượng, cơ động đến những khu vực ùn tắc, địch khống chế mạnh, phối hợp với lực lượng tại chỗ tổ chức những trận đánh quyết định, bảo đảm cho vận chuyển thông suốt.

Máy bay Mig-17 góp phần tạo nên lưới lửa phòng không hiệu quả (Ảnh tư liệu)

Trong thời gian này, Quân chủng vừa tổ chức lực lượng chiến đấu vừa đẩy mạnh công tác xây dựng lực lượng. Chỉ trong một thời gian ngắn, Quân chủng đã xây dựng thêm hai trung đoàn pháo phòng không 216 và 222; Trung đoàn Không quân tiêm kích 923 được đưa về nước và chuẩn bị triển khai chiến đấu. Bộ đội tên lửa phòng không tập trung hoàn thành huấn luyện cho trung đoànđầu tiên và chuẩn bị cho việc thành lập trung đoàn thứ hai. Tổ chức huấn luyện sĩ quan tham mưu và kíp chiến đấu đài ra đa, sĩ quan dẫn đường và thông tin. Các sân bay Kép, Yên Bái, Thọ Xuân, Kiến An được xây dựng, sửa chữa khẩn trương. Ngày 19/5/1965, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định thành lập hai Bộ Tư lệnh Phòng không của hai khu vực Hà Nội, Hải Phòng, thành lập Trung đoàn Tên lửa 236 sử dụng tên lửa SA-75 (SAM-2).

Đêm 21/7, hai tiểu đoàn 63 và 64 của Trung đoàn 236 được lệnh hành quân, chiếm lĩnh hai trận địa ở Chùa Ghề và Vô Khuy (Trung Hà - Sơn Tây) chuẩn bị cho trận đầu ra quân của bộ đội tên lửa. Hồi 15 giờ 30 phút ngày 24/7/1965, tên lửa SAM-2 của miền Bắc Việt Nam đã xuất trận lần đầu và bắn rơi máy bay Mỹ. Ngày 24/7 trở thành Ngày truyền thống cùa bộ đội tên lửa Việt Nam.

Ngày 27/7, Mỹ xuất kích đội hình gồm 48 máy bay F-105D tấn công  2 trận địa tên lửa của ta. Do dự đoán đúng về địch nên ta đã kịp thời cơ động hai Tiểu đoàn 63 và 64 ra trận địa dã chiến ở Thượng Thụy và Kim Đái (Tùng Thiện - Sơn Tây), thay vào đó là hai bộ khí tài tên lửa giả làm bằng tre và cót. Các đơn vị pháo phòng không phục kích bảo vệ trận địa tên lửa đã đánh trả quyết liệt. Kết quả là Không quân Mỹ mất 6 chiếc F-105D, 5 phi công bị chết và bắt trong tổng số 55 lần xuất kích. Đây là một trong những ngày đen tối nhất trong chiến tranh Không quân của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam.

Sau đợt chiến đấu từ 24 đến 27/7, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng chủ trương “trong khi tăng cường khả năng bảo vệ yếu địa và các trọng điểm trên các tuyến giao thông chiến lược, đồng thời tích cực tổ chức lực lượng, kết hợp tên lửa và pháo phòng không cơ động đánh địch trên các hướng để tiêu diệt địch từ xa, uy hiếp tinh thần giặc lái, từng bước hạn chế hoạt động của địch. Đến cuối năm 1965, Quân chủng thành lập 3 cụm phòng không hỗn hợp giữa tên lửa và pháo phòng không, lấy tên lửa làm nòng cốt, hoạt động trên các hướng trọng điểm ở miền Bắc gồm: Cụm 1 ở khu vực Việt Trì - Yên Bái; Cụm 2 ở Ninh Bình; Cụm 3 ở khu vực Quảng Ninh. Đây là sự phát triển mới trong nghệ thuật sử dụng lực lượng phòng không cơ động trên các hướng, tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô chiến thuật.

Cuối năm 1965, ta đã có thêm trung đoàn Không quân tiêm kích thứ hai là Trung đoàn 923, lực lượng phi công, cán bộ chỉ huy cũng được tăng cường. Hệ thống các đài chỉ huy, các trạm ra đa dẫn đường và ra đa cảnh giới được trang bị tương đối hoàn chỉnh. Qua một năm chiến đấu, hệ thống chỉ huy, dẫn đường đã tích lũy thêm kinh nghiệm, đủ sức chỉ huy và dẫn dắt các tốp MiG-17 tham gia các trận đánh hiệp đồng với lực lượng phòng không.

Quân và dân miền Bắc sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới.

 

1. Quân chủng Phòng không: Lịch sử Quân chủng Phòng không, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993, t.2, tr.10.