Gia đình là tế bào của xã hội. Nhận thức tầm quan trọng của gia đình, trong gần 40 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ quan điểm về xây dựng gia đình Việt Nam, thể hiện qua văn kiện các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng xác định: “Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới”.
Nghị quyết yêu cầu các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể quần chúng cần “đề ra phương hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia đình văn hoá mới, bảo đảm hạnh phúc gia đình. Nâng cao trình độ tự giác xây dựng những quan hệ tình cảm, đạo đức trong từng gia đình, bảo đảm sinh đẻ có kế hoạch và nuôi dạy con ngoan, tổ chức tốt cuộc sống vật chất, văn hoá của gia đình[1]. Về kinh tế, Đại hội chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, yếu tố quan trọng của mỗi gia đình Việt Nam.
Để thực hiện điều đó, ngày 5/8/1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, xác định hộ gia đình là đơn vị kinh tế; yêu cầu “các đơn vị quốc doanh, tập thể có trách nhiệm tạo điều kiện, hướng dẫn, giúp đỡ cho kinh tế gia đình phát triển”[2].
Quan điểm này tiếp tục được Đại hội VII (1991) của Đảng nhấn mạnh cần phải “phát triển mạnh kinh tế gia đình bằng nhiều hình thức”[3]. Đây là những quan điểm hết sức mới mẻ, nếu như trước đây, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất,… mới được coi là đơn vị kinh tế, thì nay hộ gia đình cũng là đơn vị kinh tế. Quan điểm này tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình bứt phá phát triển mạnh mẽ, tạo nền tảng vững chắc đối với sự ổn định xã hội.

Đại hội VI đánh dấu quan điểm đổi mới của Đảng về xây dựng gia đình Việt Nam (Ảnh tư liệu)
Không chỉ nhấn mạnh việc phát triển kinh tế gia đình, Đảng còn đặc biệt quan tâm xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam. Nghị quyết Đại hội VII (1991) của Đảng nêu rõ văn hóa gia đình có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xây dựng đất nước. Văn hóa gia đình góp phần phát triển lực lượng sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống, thực hiện kế hoạch hoá dân số, giữ gìn và phát huy những truyền thống đạo đức, văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người. Kết hợp và phát huy vai trò của xã hội, các đoàn thể, nhà trường, tập thể lao động và tập thể dân cư trong việc chăm lo bồi dưỡng tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người mới và nền văn hoá mới[4].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do Đại hội VII của Đảng thông qua, nêu rõ vai trò đặc biệt quan trọng của gia đình đối với sự phát triển của mỗi cá nhân con người và toàn xã hội: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”[5].
Để xây dựng gia đình Việt Nam là tổ ấm của mỗi người có cuộc sống no đủ, hạnh phúc, Cương lĩnh chỉ rõ: “Các chính sách của Nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm, hòa thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người. Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường xây dựng phong cách lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, nơi thể hiện tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người mới và nền văn hoá mới”[6].
Quan điểm này tiếp tục được Đại hội VIII (1996) của Đảng nhấn mạnh: “Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc, làm cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người. Phát huy trách nhiệm của gia đình trong việc lưu truyền những giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác”[7].
Đến năm 1998, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII số 03-NQ/TW, ngày 16/7/1998 Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đã gắn vai trò của gia đình, của bố mẹ với trường học và xã hội trong giáo dục trẻ em: “Gìn giữ và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình. Xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội”[8] .
Bước sang thế kỉ XXI, Đại hội Đảng IX (2001) của Đảng nêu rõ trách nhiệm của gia đình trong việc giáo dục phát triển nhân cách, lối sống của các thành viên trong gia đình làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội.
Đặc biệt, ngày 21/2/2005, Ban Bí thư Trung ương ra Chỉ thị số 49-CT/TW Về xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là lần đầu tiên Đảng ra chỉ thị về xây dựng gia đình, trong đó Đảng xác định rõ ràng, cụ thể hơn quan điểm về gia đình Việt Nam so với những năm trước đây: “Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[9].
Chỉ thị khẳng định vai trò của gia đình Việt Nam từ lịch sử đến hiện tại: “Trải qua nhiều thế hệ, gia đình việt Nam được hình thành và phát triển với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản sắc văn học dân tộc. Những giá trị truyền thống quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thuỷ chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù và sáng tạo trong lao động, bất khuất, kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách đã được gia đình Việt Nam gìn giữ, vun đắp và phát huy trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước”[10].
Trên cơ sở đó, Chỉ thị đề ra các nhiệm vụ xây dựng gia đình đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới: Đầu tư cho gia đình là đầu tư cho phát triển bền vững; Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ sự ổn định và phát triển của gia đình; xây dựng gia đình phải luôn gắn với sự nghiệp giải phóng phụ nữ; giáo dục và vận động mọi gia đình tự nguyện tự giác, tích cực thực hiện nếp sống văn minh; kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn với xây dựng những giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển; đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ gia đình; nhân rộng các mô hình kinh tế hộ tiên tiến; bảo đảm kết quả bền vững của chương trình xoá đói giảm nghèo và tạo việc làm, nhất là ở các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đông bào dân tộc thiểu số, quan tâm đặc biệt tới các gia đình có công với cách mạng, gia dình là nạn nhân của chiến tranh;... Chỉ thị xác định sớm xây dựng và triển khai chiến lược và chương trình mục tiêu về công tác gia đình.
Đại hội X (2006) của Đảng xác định: “Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[11].
Đại hội XI (2011) của Đảng tiếp tục xác định phải “sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam” [12]. Cương lĩnh xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền văn hoá Việt Nam”[13].

Từ năm 2001, ngày 28/6 hằng năm được lấy làm "Ngày gia đình Việt Nam"
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, tháng 6/2014, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI ra nghị quyết Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người việt nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nghị quyết xác định: “Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau”[14].
Đại hội XII (2016) của Đảng tiếp tục đề ra nhiệm vụ: “Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh”[15].
Đến Đại hội XIII (2021) của Đảng đề ra chủ trương: “phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”[16]; “thực hiện các chuẩn mực văn hoá gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ và văn minh”[17]. Trong quá trình đó, “đề cao vai trò của gia đình trong nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ”[18].
Dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Ban hành hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam, tích hợp sâu rộng vào chương trình giáo dục, các hoạt động truyền thông đại chúng và hoạt động văn hoá cơ sở”; “Tổ chức thực hiện Hệ giá trị quốc gia, Hệ giá trị văn hoá, Hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam”[19].
Như vậy, trong gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, quan điểm của Đảng về xây dựng gia đình Việt Nam là nhất quán và ngày càng sáng tỏ hơn, trong đó Đảng đặc biệt quan tâm xây dựng chiến lược quốc gia phát triển gia đình. Từ năm 2001, Chính phủ quyết định lấy ngày 28/6 hằng năm là Ngày gia đình Việt Nam. Từ năm 2005, Đảng xác định phải sớm xây dựng và triển khai chiến lược và chương trình mục tiêu về công tác gia đình Việt Nam.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 429-430
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 49, tr. 115.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.51, tr. 97.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr. 109
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr. 141
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr. 141
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, t.55, tr, 393
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.57, tr. 307
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, t.64, tr.126
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.64,tr.126.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.65, tr.203.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.223.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.77
[14] https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xi/nghi-quyet-so-33-nqtw-ngay-962014-hoi-nghi-lan-thu-9-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-ve-xay-dung-va-phat-trien-590
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2016, tr.128.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t I, tr.143.
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,2021, t.I, tr.143.
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 144.
[19] Xem: https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-du-thao-bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-tai-dai-hoi-xiv-cua-dang-119251015171703632.htm
