Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, dầu đã có rất nhiều mối quan hệ đoàn kết gắn bó, song có lẽ mối quan hệ gắn bó đặc biệt, đoàn kết keo sơn giữa Việt Nam và Lào là một điển hình, một tấm gương mẫu mực về tình bạn thủy chung, trong sáng.
“Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”
Đầu năm 1963, vua Lào Savang Vatthana dẫn đầu đoàn đại biểu Hoàng gia Lào thăm Việt Nam, trong buổi chiêu đãi vua Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau như anh em... Ngày nay, chúng ta lại đang giúp đỡ nhau để xây dựng một cuộc sống mới. Tình nghĩa láng giềng anh em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được…Thật là: Thương nhau mấy núi cũng trèo,/ Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua./ Việt - Lào, hai nước chúng ta,/ Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”
Người Việt Nam có câu “Láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau”.
Nhân dân Lào gọi Nhân dân Việt Nam là “Bản cạy hươn khiêng” (bản kề, nhà cạnh). Người Việt Nam cũng có câu “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”.
Lào không chỉ là láng giềng gần mà còn là bạn bè thân thiết của Việt Nam. Người ta có thể lựa chọn nhiều thứ nhưng không ai có thể lựa chọn quốc gia láng giềng của mình, bởi không ai có thể mang quốc gia của mình đi nơi khác. Việt Nam thật may mắn và hạnh phúc khi sườn phía Tây của đất nước là một nước bạn Lào thủy chung, son sắt.

Quốc vương Lào Savang Vatthana năm 1964 (Ảnh tư liệu)
Trải qua bao biến thiên, thăng trầm của lịch sử, mối quan hệ giữa hai đất nước và hai dân tộc ngày càng bền chặt vì lợi ích chung của Nhân dân hai nước, vì hòa bình, hợp tác, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Cả Lào và Việt Nam đều dựa lưng vào dãy Trường Sơn Hùng vĩ, đây là bức tường thành hiểm yếu để hai đất nước và hai dân tộc nương tựa vào nhau.
Cho dù ngôn ngữ khác nhau, song Nhân dân hai nước đều có đặc điểm chung là giàu lòng nhân ái, bao dung với nền văn hóa lâu đời, đặc sắc. Lịch sử đã gắn kết hai dân tộc Lào - Việt Nam chặt chẽ hơn khi cùng chung chiến hào chống lại kẻ thù xâm lược.
Những năm cuối thế kỷ XIX, cả Việt Nam và Lào đều có chung kẻ thù xâm lược là thực dân Pháp. Vì vậy, trên hành trình đi tìm con đường giải phóng dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc không chỉ quan tâm đến việc giải phóng dân tộc Việt Nam, Người còn đặc biệt quan tâm đến việc giải phóng nhân dân Lào.
Tháng 6/1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, đến tháng 02/1927, Hội này đã gây dựng được cơ sở tại Lào.
Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và đến tháng 10/1930, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam quyết nghị đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương; xác lập các nguyên tắc, phương hướng, đường lối chính trị và những nhiệm vụ cơ bản cho phong trào cách mạng của ba dân tộc ở Đông Dương. Hội nghị đặt phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Từ trong phong trào đấu tranh của nhân dân Lào, nhiều người con ưu tú của nhân dân Lào được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc ở mỗi nước, dưới sự lãnh đạo bằng những chủ trương sáng suốt của Đảng Cộng sản Đông Dương, hai nước Lào, Việt Nam đã khởi nghĩa giành chính quyền thành công trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở mỗi nước.
Ngay sau khi Lào giành được độc lập ngày 23/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử đại diện của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sang thiết lập quan hệ với Chính phủ Lào. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời Hoàng thân Souphanouvong đang ở Vinh ra Hà Nội. Đây được xem là cuộc gặp lịch sử đánh dấu bước quyết định đối với Hoàng thân trong việc chọn lựa con đường làm cách mạng.
Ngày 03/10/1945, hàng vạn nhân dân tỉnh Savannakhet đã đón chào Hoàng thân Souphanouvong trở về tham gia Chính phủ Lào, Hoàng thân tuyên bố: “Quan hệ Lào - Việt từ nay sẽ mở ra một kỷ nguyên mới...”.
Ngày 12/10/1945, Chính phủ Lào Ítxalạ vừa được thành lập đã làm lễ ra mắt và trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể nhân dân nền độc lập của quốc gia Lào. Chính phủ Lào chủ trương: “Nhân dân Lào thân thiện với nhân dân Việt Nam và quyết tâm cùng nhân dân Việt Nam đánh đuổi bọn thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương”. Thủ tướng Khăm Mạo tuyên bố với Việt kiều: “mong rằng ba nước Việt, Miên, Lào bắt tay nhau để kiến thiết quốc gia”.
Sau khi giành được chính quyền, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp ước tương trợ Lào - Việt và Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào - Việt, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự hợp tác, giúp đỡ và liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung của hai dân tộc Việt - Lào.
Trước sự trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ 2 của thực dân Pháp ngày 23/9/1945 và nguy cơ thực dân Pháp sẽ chiếm toàn bộ Đông Dương, ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị kháng chiến kiến quốc, chủ trương:“Thống nhất mặt trận Việt - Miên - Lào chống Pháp xâm lược”. Chỉ thị kháng chiến kiến quốc của Đảng đã bước đầu xác lập và định hướng liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia.
Ngày 20/01/1949, Đội Látxavông (tiền thân của Quân đội nhân dân Lào) được thành lập tại vùng căn cứ Xiềng Khọ (Hủa Phăn), do đồng chí Kayson Phonvihan làm Tổng Chỉ huy. Sự kiện này đánh dấu một bước trưởng thành của lực lượng kháng chiến Lào, là ngày thành lập của Quân đội nhân dân Lào, khởi đầu tiến trình xây dựng và trưởng thành của lực lượng vũ trang cách mạng Lào.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàn thân Souphanouvong (Ảnh tư liệu)
Ngày 30/10/1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định các lực lượng quân sự của Việt Nam được cử làm nhiệm vụ quốc tế tại Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, Đại hội Quốc dân Lào (Mặt trận Lào kháng chiến) họp từ ngày 13 đến ngày 15/8/1950 tại Tuyên Quang (Việt Nam), quyết định thành lập Chính phủ kháng chiến Lào, lập Mặt trận dân tộc thống nhất Lào (tức Neo Lào Ítxalạ), do Hoàng thân Souphanouvong làm Chủ tịch kiêm Thủ tướng Chính phủ.
Đại hội đại biểu lần thứ hai của Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp từ ngày 11 đến ngày 19/2/1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang (Việt Nam) (nay là xã Kim Bình, tỉnh Tuyên Quang) thông qua Nghị quyết về đường lối, nhiệm vụ chung và đề ra chủ trương xây dựng ở mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia một đảng cách mạng, có cương lĩnh riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể để lãnh đạo cuộc kháng chiến ở từng nước đến thắng lợi hoàn toàn. Tuy việc thành lập đảng để phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện lịch sử ở mỗi nước, song Đảng Lao động Việt Nam, Nhân dân Việt Nam đã làm hết sức mình ủng hộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân Lào như: Giúp đỡ trong việc tổ chức Nhóm nhân dân Lào làm nòng cốt lãnh đạo phong trào và chuẩn bị cho việc thành lập chính đảng cách mạng của Lào; phối hợp mở chiến dịch Thượng Lào (tháng 4/1953), phối hợp và giúp những người cách mạng Lào thành lập Ban vận động thành lập Đảng Nhân dân Lào v.v…
Từ ngày 22/3 đến ngày 6/4/1955 tại tỉnh Sầm Nưa, Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào được tiến hành từ ngày Việc Đảng Nhân dân Lào ra đời là một dấu mốc phát triển của phong trào cách mạng, tạo cơ sở vững chắc để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào kháng chiến ở Lào, đồng thời là nhân tố trọng yếu, có ý nghĩa quyết định thúc đẩy quan hệ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng hai nước Lào - Việt Nam.
Sau thất bại nặng nề liên tiếp trên các mặt trận, đế quốc Mỹ và chính quyền Viêng Chăn phải thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc lần thứ hai, có lực lượng Pathét Lào tham gia (ngày 12/6/1962) và ký kết Hiệp định Geneva (ngày 23/7/1962) với sự tham gia của 14 nước, công nhận nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Lào. Việc ký kết Hiệp định Geneva năm 1962, giải quyết hoà bình vấn đề Lào ghi nhận bước phát triển vượt bậc của cách mạng Lào, góp phần củng cố tình đoàn kết hữu nghị, liên minh chiến đấu giữa nhân dân hai nước Việt Nam, Lào. Sau Hiệp định Genevanăm 1962 về Lào, ngày 5/9/1962, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Vương quốc Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.
(Còn tiếp)
