Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Dù ở mức độ khác nhau và tùy từng hoàn cảnh, nhưng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước là nhất quán, luôn coi người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời của dân tộc, luôn đoàn kết, tạo điều kiện để người Việt Nam ở nước ngoài góp phần xây dựng quê hương, đất nước
Những nhà hoạt động cách mạng Việt Nam luôn hiểu rõ về vai trò hết sức quan trọng của người Việt Nam ở nước ngoài. Chế độ thực dân phong kiến sử dụng bộ máy cảnh sát, mật thám dày đặc để bóp chết các phong trào cách mạng từ khi còn trứng nước buộc các nhà yêu nước phải ra nước ngoài để hoạt động. Việt kiều là những người đầu tiên họ muốn gặp để móc nối, tổ chức và xây dựng lực lượng cách mạng. Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, v.v. đã từng được nhiều Việt kiều ở Trung Quốc, Pháp, Thái Lan, v.v giúp đỡ.
Sau khi đất nước giành độc lập, nghe theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ cách mạng, Việt kiều tiếp tục có những đóng góp, ủng hộ quý báu cho thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước.
Từ sau ngày 30/4/1975, Việt Nam trở thành một quốc gia thống nhất. Toàn thể nhân dân Việt Nam bước vào thời kỳ cách mạng mới, thời kỳ cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tình hình và nhiệm vụ mới đặt ra cho Đảng nhiệm vụ phải giữ vững và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng chủ trương thu hút giới khoa học, kỹ thuật trong Việt kiều về nước phục vụ Tổ quốc và nhân dân.
Đại hội IV của Đảng, năm 1976, đánh giá bà con Việt kiều luôn luôn hướng về Tổ quốc thân yêu, góp phần tích cực vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Đại hội tin rằng trong giai đoạn mới, chắc chắn kiều bào sẽ góp sức cùng đồng bào trong nước khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, khoa học, kỹ thuật, cống hiến nhiều hơn nữa vào công cuộc xây dựng lại nước nhà.
Một buổi gặp gỡ trí thức, kiều bào yêu nước tại Thành phố Hồ Chí Minh
Trong những năm này, một số trí thức người Việt Nam ở nước ngoài có nguyện vọng về nước trong một thời gian hoặc về hẳn, đã được tổ chức cho về và sử dụng đúng tài năng.
Chỉ thị số 76-CT/TW (năm 1979) của Ban Bí thư chủ trương tích cực thu hút các trí thức Việt Nam ở nước ngoài tham gia các chương trình khoa học kỹ thuật trọng điểm của Nhà nước, các ngành và các địa phương; mời làm “cộng tác viên ở nước ngoài” của các Viện nghiên cứu trong nước; cộng tác giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu sinh ở một số trường đại học trong nước.
Đất nước sau chiến tranh đã sớm gặp nhiều khó khăn và còn khó khăn hơn gấp bội phần khi mà thực tế, chiến tranh vẫn tiếp tục ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Trong khi đó, các thế lực thù địch bao vây cấm vận kinh tế, thực hiện chiến tranh phá hoại nhiều mặt, bao gồm việc dung túng cho các tổ chức phản động nước ngoài tìm cách thâm nhập, móc nối kết hợp với các phần tử phản động, bất mãn trong nước tiến hành bạo loạn, lật đổ chính quyền. Do đời sống trong nước còn nhiều khó khăn và nhiều nguyên nhân khác nhau, một số lượng không ít đồng bào đã phải bỏ ra nước ngoài. Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương vận động Việt kiều cảnh giác, không làm gì có hại đối với Tổ quốc và nhân dân; nâng cao cảnh giác, cô lập và phân hóa các tổ chức phản động người Việt Nam ở nước ngoài.
Cuối những năm 1980, số lượng Việt kiều được Nhà nước tạo điều kiện về nước thăm thân ngày càng nhiều. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI được các tầng lớp nhân dân trong cả nước và Việt kiều ở nước ngoài đóng góp ý kiến.
Đại hội VI (năm 1986) của Đảng đánh giá về sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài về kinh tế và khoa học kỹ thuật là một nhân tố quan trọng và hiện thực, thể hiện sự gắn bó và tình cảm của đồng bào đối với quê hương đất nước. Đảng và Nhà nước cần sửa những cơ chế, chính sách không hợp lý để đồng bào có điều kiện tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng Tổ quốc.
Xuân Quê Hương - Một chương trình gặp mặt kiều bào dịp Tết Nguyên Đán
Bắt đầu từ đây, Nhà nước khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài gửi về nước vật tư, phụ tùng, thiết bị, ưu tiên bán cho Nhà nước, tập thể theo giá thỏa thuận và sử dụng cho gia đình; cho phép người Việt Nam ở nước ngoài góp vốn vào xí nghiệp quốc doanh; khuyến khích đầu tư, đóng góp bằng nhiều hình thức vào công cuộc xây dựng đất nước.
Năm 1991, Đại hội VII của Đảng thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, chủ trương tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư phát triển kinh tế, trợ giúp người thân và đóng góp xây dựng quê hương, đất nước.
Nghị quyết số 08-NQ/TW (1993) của Bộ Chính trị nêu quan điểm: “Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng người Việt Nam. Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài trên cơ sở luật pháp nước sở tại, luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế”.
Đại hội IX của Đảng (2001) nêu rõ: Nhà nước tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai. Đại hội IX không chỉ coi đồng bào Việt Nam ở nước ngoài “là một bộ phận không tách rời” mà còn là “một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Đại hội chủ trương có những chính sách tạo điều kiện thuận lợi để kiều bào về thăm quê hương, mở mang các hoạt động văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, sản xuất, kinh doanh, góp phần thiết thực xây dựng đất nước.
Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị (năm 2004) chủ trương tiếp tục hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, yên tâm làm ăn sinh sống, hội nhập đời sống xã hội nước sở tại. Tạo mọi điều kiện cho đồng bào về thăm quê hương, hồi hương hoặc làm ăn sinh sống có thời hạn. Đãi ngộ thỏa đáng đối với các chuyên gia, trí thức người Việt Nam có trình độ chuyên môn cao; xây dựng chính sách thu hút đồng bào đầu tư, kinh doanh ở trong nước. Khuyến khích những hoạt động hướng về Tổ quốc của bà con. Chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, kể cả với những người còn có định kiến, mặc cảm với Nhà nước và chế độ. Giải quyết có tình, có lý và trên cơ sở đạo lý Việt Nam các vấn đề nhân đạo do lịch sử để lại nhằm thực hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời có biện pháp phù hợp đấu tranh với những biểu hiện cố tình đi ngược lại lợi ích dân tộc, phá hoại quan hệ giữa các nước có đông người Việt Nam sinh sống với Việt Nam hoặc gây chia rẽ trong cộng đồng người Việt Nam ở nước sở tại.
Kỷ niệm 30 năm thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2005), Thủ tướng Phan Văn Khải đưa ra thông điệp quan trọng về quan điểm hòa hợp dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với những người đã từng ở phía bên kia chiến tuyến, những người ở lại trong nước cũng như những người đã ra nước ngoài là “khép lại quá khứ, nhìn về tương lai”. Ông cho rằng giành được độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc là thắng lợi của cả dân tộc, của mọi người Việt Nam yêu nước chống lại các lực lượng xâm lược.
Từ Đại hội X của Đảng, tháng 4/2006 đến Đại hội XIII năm 2021, Đảng tiếp tục khẳng định vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của đất nước; đồng bào định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực quan trọng góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tháng 10/2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII họp và ra “Nghị quyết về tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh hạnh phúc” khẳng định quan điểm xuyên suốt là đoàn kết giữa người Việt Nam ở trong nước và ngoài nước là một trong những yếu tố tạo thành nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hằng năm, Nhà nước tổ chức các chương trình như “Xuân Quê hương”, “Trại hè Việt Nam”, “Ngày hội tiếng Việt” dành cho kiều bào, đặc biệt là thế hệ trẻ. Các lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam có nhiều chuyến thăm, gặp mặt kiều bào tiêu biểu.
Tại diễn văn đọc tại Lễ kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định chủ trương của Đảng “đổi mới cơ chế, chính sách, tạo mọi điều kiện thuận lợi để bạn bè quốc tế và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, những người mang trong mình bản sắc văn hóa Việt Nam, trưởng thành ở các nước phát triển, am hiểu chuyên môn và quản lý, có sự kết nối quốc tế sâu rộng tham gia các hoạt động thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội tại Việt Nam”.
Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước là nguồn động viên tinh thần to lớn để đồng bào Việt Nam ở nước ngoài luôn hướng về đất nước, giữ gìn bản sắc dân tộc Việt. Đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngoài, dù ở mức độ khác nhau tùy từng hoàn cảnh, nhưng là nhất quán với tinh thần luôn tạo điều kiện để đồng bào gắn kết và góp phần xây dựng quê hương đất nước.