Tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công” của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là lời kêu gọi, mà còn là một chân lý mang giá trị lịch sử, chính trị và nhân văn sâu sắc. Trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã nhiều lần chứng minh rằng sức mạnh nội sinh, niềm tin và tinh thần đồng lòng là yếu tố quyết định mọi thắng lợi. Từ những năm tháng kháng chiến gian khổ cho đến thời kỳ hòa bình, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế, tinh thần đoàn kết dân tộc luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là nền tảng để Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, khẳng định vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế. Trong kỷ nguyên mới, tinh thần đại đoàn kết tiếp tục trở thành ngọn lửa hun đúc ý chí vươn lên, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Từ truyền thống đến kháng chiến – sức mạnh đoàn kết làm nên kỳ tích dân tộc
Đoàn kết là giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, được hình thành và củng cố qua biết bao biến thiên lịch sử. Từ thời dựng nước, tinh thần ấy đã được thể hiện trong thời đại của các vua Hùng, trong chiến công của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng hay Trần Hưng Đạo với Hội nghị Diên Hồng. Đó không chỉ là sự đoàn kết của quân và dân, mà còn là sự thống nhất về ý chí – tinh thần “đồng lòng cùng vua vì nước”. Chính sự cố kết cộng đồng ấy đã giúp dân tộc nhỏ bé nhưng kiên cường đánh bại cuộc xâm lăng của các đế quốc hùng mạnh hơn gấp bội.
Đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh đất nước chìm trong ách nô lệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc thành đường lối chiến lược mang tính cách mạng. Người khẳng định: “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công.” Dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh, mọi tầng lớp nhân dân từ công nhân, nông dân đến trí thức, tư sản dân tộc, tôn giáo, dân tộc thiểu số đều được tập hợp trong khối thống nhất để cùng hướng về mục tiêu độc lập, tự do. Chính sức mạnh đoàn kết toàn dân ấy đã làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945- 1975), tinh thần đại đoàn kết tiếp tục trở thành nhân tố quyết định thắng lợi. Khi miền Bắc vừa xây dựng những tiền đề của chủ nghĩa xã hội, vừa thực hiện vai trò hậu phương lớn, chi viện cho miền Nam; Nhân dân miền Nam quyết tâm với sự đồng hành của nhân dân miền Bắc, hướng về một mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước với phương châm “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Sự đồng lòng giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, giữa các tầng lớp, các dân tộc, giữa những người con cùng chung dòng máu Lạc Hồng đã tạo nên kỳ tích “Điện Biên Phủ chấn động địa cầu” và Đại thắng Mùa xuân năm 1975. Đó là chiến thắng của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.
Trong kỷ nguyên mới – Đại đoàn kết là động lực phát triển và hội nhập
Bước ra khỏi cuộc chiến tranh, tinh thần đoàn kết không hề phai nhạt mà được chuyển hóa thành sức mạnh của xây dựng, đổi mới và hội nhập quốc tế. Bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986, Việt Nam đối mặt với muôn vàn khó khăn: kinh tế kiệt quệ, bao vây cấm vận, cơ chế cũ trì trệ. Nhưng chính trong thời điểm đó, tư tưởng “đại đoàn kết” một lần nữa được khơi dậy như động lực nội sinh. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đồng lòng thực hiện công cuộc cải cách kinh tế – xã hội, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ đó, chỉ trong vài thập niên, Việt Nam đã vươn lên trở thành nền kinh tế có thu nhập trung bình, với vị thế ngày càng được khẳng định trong khu vực và thế giới.
Tinh thần đoàn kết trong thời kỳ mới không còn chỉ là sự cố kết trong chiến tranh, mà là sự hợp lực trong hòa bình giữa các vùng miền, giữa các thành phần kinh tế, giữa người Việt trong và ngoài nước. Các phong trào như “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đều là minh chứng sống động cho sự lan tỏa của tinh thần này. Đặc biệt, trong đại dịch COVID-19, khi cả dân tộc cùng đồng lòng chống dịch, từ lực lượng tuyến đầu đến những tấm lòng thiện nguyện, tinh thần “đại đoàn kết” lại một lần nữa trở thành bức tường vững chắc giúp đất nước vượt qua thử thách.
Bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, kỷ nguyên chuyển đổi số và hội nhập toàn cầu, thì tinh thần đại đoàn kết ấy còn mang ý nghĩa của liên kết tri thức, công nghệ và khát vọng dân tộc. Khi người Việt ở khắp nơi cùng góp sức cho quê hương; khi doanh nghiệp, nhà khoa học, nông dân, công nhân cùng đồng hành trong mục tiêu phát triển bền vững; khi thanh niên mang trong mình ý chí tự cường và tinh thần sáng tạo thì đó chính là sự hiện thực hóa lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”.
Ngày nay, trong hành trình xây dựng đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam là quốc gia hùng cường, hưng thịnh, hạnh phúc. Đó là khát vọng của cả dân tộc, là lời thề danh dự trước lịch sử, trước nhân dân, thì tinh thần đoàn kết càng trở nên cấp thiết. Nó không chỉ giúp đất nước vượt qua thách thức của cạnh tranh toàn cầu, biến đổi khí hậu hay xung đột lợi ích, mà còn tạo nền tảng để Việt Nam khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và bản sắc trong thế giới đa cực. Đoàn kết dân tộc, kết hợp với đoàn kết quốc tế, sẽ là chìa khóa để hiện thực hóa khát vọng phát triển – đưa Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu” như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ lịch sử dựng nước, giữ nước cho đến công cuộc đổi mới và hội nhập hôm nay, tinh thần đại đoàn kết luôn là chân lý bất biến, là nguồn sức mạnh làm nên mọi thắng lợi của dân tộc Việt Nam. Trước những thời cơ và thách thức của kỷ nguyên mới, hơn bao giờ hết, mỗi người Việt Nam cần ý thức rằng: sức mạnh của dân tộc không nằm ở quy mô hay tiềm lực vật chất, mà nằm ở sự đồng lòng, ở khối đại đoàn kết thống nhất trong đa dạng; ở triệu triệu trái tim cùng nhịp đập với khát vọng vì Việt Nam hùng cường.
