Cách mạng tháng Tám năm 1945 là sự kiện lịch sử, chính trị trọng đại của dân tộc Việt Nam, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong tiến trình phát triển đất nước. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám mang lại độc lập cho dân tộc, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đặt nền móng cho việc xây dựng thể chế quốc gia mới chưa từng có trong lịch sử Việt Nam, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giành độc lập và kiến thiết thể chế quốc gia mới cho nước ta
Tầm nhìn trong tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản
Nhận thức rõ thực tiễn đất nước Việt Nam bị thực dân Pháp thống trị có nhiều mâu thuẫn đan xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và tay sai phản động, do đó, từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và truyền bá trong nhân dân.
Chính cương vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, xác định nhiệm vụ: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”[1]. Nhằm thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ hàng đầu là quy tụ, tập hợp, phát huy cao độ sức mạnh của quần chúng nhân dân, các giai tầng trong xã hội, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh anh dũng, quật cường của toàn dân tộc để tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc.
Tháng 5/1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được"[2].
Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: "Phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù…" . Trong những hoàn cảnh nhất định "với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”[3]. Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc và quan điểm về khởi nghĩa dân tộc của Hồ Chí Minh là sự chuẩn bị về đường lối và phương thức giành thắng lợi cho Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Tầm nhìn trong thành lập Mặt trận Việt Minh, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, chuẩn bị lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng
Trong cuộc vận động Cách mạng tháng Tám, Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã dày công xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thông qua khuôn khổ Mặt trận Việt Minh, mà trước hết là chăm lo xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết trong các đoàn thể quần quần chúng. Để tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng, việc xây dựng lực lượng chính trị là mối quan tâm hàng đầu của Người. Đó vừa là cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng, vừa là lực lượng trực tiếp đấu tranh bằng những hình thức từ thấp đến cao. Lực lượng chính trị là đạo quân cách mạng đông đảo, bao gồm tất cả quần chúng được giác ngộ và tổ chức. "Muốn có đội quân vũ trang phải có đội quân tuyên truyền vận động, đội quân chính trị trước đã, nên phải làm ngay, sao cho đội quân chính trị ngày càng đông. Phải có quần chúng giác ngộ chính trị tự nguyện cầm súng thì mới thắng được"[4].
Thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, ngày 22/12/1944 (Ảnh tư liệu lịch sử dựng lại)
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng (5/1941) chủ trương vận dụng “một phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân”. Vì thế mặt trận “không thể gọi như trước là mặt trận thống nhất dân tộc phản đề Đông Dương, mà phải đổi ra cái tên khác cho có tính chất dân tộc hơn”, đó là Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Các đoàn thể trong Việt Minh đều mang tên cứu quốc nhằm đoàn kết mọi người Việt Nam có lòng yêu nước thương nòi. Việt Minh là khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, các đảng phái chính trị và tôn giáo yêu nước, có tác dụng cô lập cao độ kẻ thù đế quốc và tay sai để chĩa mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Đó là nơi tổ chức, giác ngộ và rèn luyện lực lượng chính trị cho cách mạng, một lực lượng cơ bản và có ý nghĩa quyết định trong tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Cùng với chuẩn bị lực lượng chính trị, ngay trong thời kỳ vận động thành lập Đảng, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đào tạo cán bộ quân sự, nghiên cứu lý luận quân sự, đặt nền móng cho sự ra đời lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Năm 1940, khi còn ở Quế Lâm, Hồ Chí Minh đã tính đến việc xây dựng căn cứ địa ở Cao Bằng, rồi phát triển xuống Thái Nguyên. Đầu năm 1941, khi mới về nước Người chọn Cao Bằng làm nơi đứng chân đầu tiên vì đó là nơi "có phong trào tốt từ trước", "có hàng rào quần chúng bảo vệ", lại là nơi có địa thế hiểm yếu, “tiến có thể đánh, lui có thể giữ”, nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về xuôi thì cách mạng mới thắng lợi. Trong thời kỳ kháng Nhật cứu nước, khi vùng giải phóng ở Việt Bắc được mở rộng, bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Khu giải phóng và củng cố thành căn cứ địa cách mạng cho cả nước. Trên cơ sở lực lượng chính trị phát triển mạnh ở Cao Bằng, các đội tự vệ cứu quốc ra đời. Cuối năm 1941, Người chỉ thị thành lập một đội vũ trang nhỏ gồm 12 chiến sĩ, làm các nhiệm vụ: bảo vệ cơ quan đầu não, giao thông liên lạc và huấn luyện tự vệ cứu quốc.
Cuối năm 1944, Người ra Chỉ thị thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, xác định nguyên tắc tổ chức, phương thức hoạt động và phương châm tác chiến của lực lượng vũ trang. Đó là Cương lĩnh quân sự đầu tiên của Đảng.
Chấp hành chỉ thị này, ngày 22/12/1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, lúc đầu có 34 chiến sĩ, do Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Thực hiện tư tưởng vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân của Hồ Chí Minh, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân được thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân (5/1945), đồng thời lực lượng bán vũ trang gồm các đội du kích, tự vệ và tự vệ chiến đấu được xây dựng ngày càng rộng khắp ở các địa phương và cơ sở. Lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đều là chỗ dựa của bạo lực cách mạng, là điều kiện để kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang trong một cuộc tổng khởi nghĩa toàn dân, tạo ra sức mạnh áp đảo, làm tan rã bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai, thiết lập chính quyền cách mạng.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr 1.
[2] Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr 113.
[3] Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr 113.
[4] Vũ Anh: Hồi ký Bác Hồ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1960, tr. 120.