Có thể thấy rằng, sự phát triển của lịch sử xã hội loài người từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác có thể trải qua một giai đoạn chuyển biến được gọi là thời kỳ quá độ. Hay nói cách khác, thời kỳ quá độ là thời kỳ chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác với nhiệm vụ chủ yếu là cải tạo những yếu tố của xã hội cũ, đồng thời xây dựng những cơ sở vật chất kĩ thuật cho xã hội mới.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ chính trị. Thời kỳ quá độ có độ dài, ngắn khác nhau phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội ở từng nước khác nhau. Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại, đan xen giữa giữa những nhân tố của xã hội mới và những tàn tích của xã hội cũ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là thời kỳ cải tạo cách mạng sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất - kỹ thuật và đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội.

Đặc điểm lớn nhất của Việt Nam là quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là sự phát triển hợp quy luật, là tiến trình lịch sử- tự nhiên, có cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc.

Về cơ sở lý luận, trong khi luận giải về con đường phát triển tuần tự của các hình thái kinh tế- xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã giả định về khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản để đi lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chậm phát triển. Khi phân tích công xã nông thôn Nga, C.Mác viết: “Nó có thể đoạt lấy những thành quả do nền sản xuất tư bản chủ nghĩa làm giàu cho nhân loại mà không phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa”[1]. Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã lãnh đạo cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, đưa nước Nga từ một nước tư bản trung bình lên chủ nghĩa xã hội. Trong Quốc tế cộng sản, Lênin đã khẳng định các nước chậm phát triển có thể đi lên chủ nghĩa xã hội với các điều kiện khách quan là cuộc cách mạng ở nước đó phải do giai cấp vô sản lãnh đạo, phải áp dụng đường lối chính trị cộng sản và phải được sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ xô viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”[2]. Qua thực tiễn những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, Lênin đã đề cập tới nhiều vấn đề cụ thể của việc thực hiện con đường quá độ “bỏ qua” trong chính sách kinh tế mới (NEP). Đó là con đường lâu dài, gian khổ, phải trải qua nhiều khâu trung gian, quá độ, phải biết lợi dụng, khai thác chủ nghĩa tư bản để rút ngắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Nắm bắt tinh thần trên, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào con đường cách mạng của đất nước. Ngay từ năm 1930, trong “Chính cương vắn tắt” của Đảng đã nêu rõ chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu chủ nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa là rất rõ ràng: Việt Nam lựa chọn dứt khoát mục tiêu xã hội chủ nghĩa, song để đi tới mục tiêu đó không thể nóng vội, đốt cháy giai đoạn mà phải có thời gian chuẩn bị những tiền đề kinh tế- xã hội cần thiết. Đó chính là thời kỳ quá độ để từng nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Về cơ sở thực tiễn, việc bỏ qua một hoặc hai hình thái kinh tế - xã hội để tiến tới hình thái kinh tế- xã hội cao hơn đã từng có tiền lệ trong lịch sử. Vì vậy, việc Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cũng không phải là một ngoại lệ. Trong thời đại ngày nay, mặc dầu chủ nghĩa xã hội hiện thực tan vỡ ở Đông Âu và Liên Xô, mặc dù chủ nghĩa tư bản có sự điều chỉnh để thích nghi và phát triển song xu thế không thể đảo ngược là lịch sử đang từng bước vượt qua chủ nghĩa tư bản để đi tới chủ nghĩa xã hội. Thời đại ngày nay cũng mở ra những khả năng to lớn cho các nước đang phát triển nâng cao ý thức độc lập tự chủ, lựa chọn hướng đi phù hợp, đồng thời hội nhập vào đời sống quốc tế để thúc đẩy con đường phát triển của đất nước. Các nước đang phát triển có thể lựa chọn con đường phát triển rút ngắn nhằm tiến tới một xã hội cao hơn, hoàn thiện hơn chủ nghĩa tư bản. Con đường đó vừa phải khai thác được lực lượng sản xuất tiên tiến, trình độ khoa học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiến bộ, vừa phải loại bỏ được những bế tắc, tiêu cực trong quan hệ sản xuất, chế độ chính trị của con đường tư bản chủ nghĩa.

Lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa cũng là sự lựa chọn phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Trong suốt quá trình bị nô dịch của chủ nghĩa thực dân và quá trình đấu tranh chống lại sự nô dịch đó, dân tộc Việt Nam đã hiểu rõ thực chất của chủ nghĩa tư bản. Nguyện vọng của cả dân tộc là giải phóng dân tộc khỏi sự thống trị, nô dịch của chủ nghĩa tư bản xâm lược, khỏi ách áp bức bóc lột, xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, nếu lựa chọn con đường tư bản chủ nghĩa là đi ngược lại với nguyện vọng của nhân dân, phản bội sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Như vậy, có thể khẳng định, việc Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn phù hợp với quy luật lịch sử, xu thế, đặc điểm của thời đại và điều kiện nội tại của đất nước. Tuy nhiên, đó là con đường khó khăn, lâu dài, không thể nôn nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn. Quá độ “rút ngắn” không có nghĩa là bỏ qua tất cả những gì chủ nghĩa tư bản đã đạt được mà chỉ bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, còn phải khai thác triệt để, có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản.


[1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 44, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 602.

[2] V.I.Lênin: Toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.295.