3. “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” và “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm”
Pháp luật không thể tự mình đi vào cuộc sống mà phải cần sự tổ chức thực hiện một cách nghiêm minh. Quản lý nhà nước chỉ có hiệu quả khi hai quá trình xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật được tiến hành đồng bộ, kết quyện chặt chẽ nhau. Thực tế chỉ ra rằng, nội dung của pháp luật được xây dựng dù có tiến bộ đến đâu nhưng cũng sẽ mất hết ý nghĩa nếu như nó không được tổ chức thực hiện tốt. Chính vì vậy, với Hồ Chí Minh, có một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, dân chủ và tiến bộ được ban hành là cần thiết, quan trọng nhưng vấn đề quan trọng hơn là pháp luật ấy phải phát huy hiệu lực thực tế, phải được xã hội thực hiện một cách nghiêm minh. Sở dĩ coi trọng công tác thực hiện pháp luật như vậy vì Hồ Chí Minh rất thấu hiểu hậu quả của sự tuỳ tiện, bẻ cong pháp luật bởi những kẻ nắm trong tay quyền hành pháp, cảnh trạng “phép vua thua lệ làng”, “lễ không đến thứ dân, hình không tới đại phu”, hay những “đày tớ” của dân biến quyền lực nhà nước thành quyền lực riêng của lãnh đạo để trở thành những “ông quan cách mạng”…
Sự nghiệp cách mạng của chúng ta là đem lại bình đẳng xã hội, mà trước hết và cơ bản là bình đẳng trước pháp luật. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn đề cao nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật về quyền lợi và nghĩa vụ, cả khi vi phạm pháp luật đều phải xử lý một cách vô tư, khách quan và công bằng. Nói rộng hơn, tránh sự lẫn lộn giữa công và tội, thưởng và phạt mà phải nghiêm minh, công bằng, “không vì công mà quên lỗi, vì lỗi mà quên công”, hoặc “thưởng có khi quá rộng mà phạt thì không nghiêm”. Quán triệt nguyên tắc cơ bản của pháp chế là tính bắt buộc chung đối với mọi người, không có ngoại lệ, Hồ Chí Minh nói: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”. Dù rất đau lòng nhưng để giữ nghiêm phép nước, Hồ Chí Minh đã phải ký lệnh chuẩn y án tử hình đại tá Trần Dụ Châu - vốn là cán bộ cách mạng thăng giữ chức Cục trưởng cục quân nhu trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp phạm tội tha hoá, biến chất, xâm phạm tài sản công. Vi phạm pháp luật phải bị trừng trị thích đáng với tinh thần không để “một con sâu làm rầu nồi canh”, trị một người không những để cứu muôn người mà còn cứu uy tín, thanh danh của Đảng và Nhà nước, củng cố được lòng tin của Nhân dân vào sự nghiệp cách mạng.
Hiệu lực và sự nghiêm minh của pháp luật phụ thuộc rất lớn vào cán bộ, nhất là cán bộ làm công tác tư pháp - những người “cầm cân nẩy mực”, đại diện cho “cán cân công lý”. Hồ Chí Minh nghiêm khắc đòi hỏi ở họ khi phụ trách thi hành pháp luật thì phải công tâm, “thiết diện vô tư”, nêu gương “phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”. Người căn dặn cán bộ tư pháp: “Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn cần phải nêu cao cái gương “phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” cho nhân dân noi theo”[1]. Ngược lại, với cán bộ vi phạm pháp luật, lợi dụng quyền hạn, chức vụ để sách nhiễu, bẻ cong pháp luật nhằm nhận hối lộ, tư lợi làm cho dân bất bình, oan ức, Người kiên quyết trị cho đến nơi đến chốn. Tại kỳ họp lần thứ hai Quốc hội khoá I, ngày 31/10/1946, trong bài trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội, Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ từ Hồ Chí Minh cho đến những người làm việc ở các uỷ ban làng đông lắm và phức tạp lắm. Dù sao Chính phủ đã hết sức làm gương và nếu làm gương không xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị. Những kẻ ăn hối lộ đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết”[2]. Với đồng bào, Người nhắc nhở rằng: “Nếu cán bộ địa phương có điều gì sai lầm, nếu đồng bào có điều gì oan ức thì đồng bào phái đại biểu đến trình bày với tôi và Chính phủ; tôi đảm bảo rằng tôi và Chính phủ sẽ trừng trị những cán bộ có lỗi và làm cho đồng bào khỏi oan ức”[3].
Trên cương vị người đứng đầu Nhà nước cũng như trong cuộc sống thường nhật, Hồ Chí Minh luôn là tấm gương mẫu mực về việc chấp hành pháp luật, nêu cao nguyên tắc “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Trước cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước ta năm 1946, rất nhiều cán bộ và nhân dân bày tỏ nguyện vọng suy tôn Người làm Chủ tịch vĩnh viễn nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, miễn ra ứng cử, Hồ Chí Minh đã trả lời: “Tôi là một công dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nên không thể vượt qua thể lệ Tổng tuyển cử đã định”. Đây là một vài chi tiết nhỏ trong rất nhiều câu chuyện cảm động về tấm gương sống và làm việc theo pháp luật của Hồ Chí Minh. Đó chính là nếp sống có văn hoá – văn hoá pháp lý. Ở Hồ Chí Minh, phản ánh một trình độ văn hóa pháp lý cao, bởi Người thể hiện sự hiểu biết về pháp luật, xây dựng pháp luật, đấu tranh thực hiện pháp luật, tôn trọng pháp luật, sống và làm theo pháp luật… và đó lại là một pháp luật thật sự dân chủ, tiến bộ.
4. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Tư tưởng pháp luật Hồ Chí Minh đã và đang để lại nhiều bài học lớn soi đường cho vấn đề tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Đó cũng là sứ mệnh của toàn xã hội, do vậy, Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và Nhân dân cùng chung tay thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, cần xây dựng tinh thần thượng tôn pháp luật, “sống và làm việc theo hiến pháp, pháp luật” cho mọi công dân trong xã hội. Đảm bảo cho pháp luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh các quan hệ thuộc các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Pháp luật trở thành chuẩn mực cao nhất xác định hành vi của mỗi cá nhân. Phải làm cho pháp luật thấm sâu vào cuộc sống, thành văn hoá ứng xử của mỗi công dân trong xã hội. Đối với pháp luật nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do quần chúng nhân dân xây dựng nên, thể hiện ý chí nguyện vọng của họ, cho nên, tôn trọng pháp luật cũng chính là tôn trọng Nhân dân và phát huy dân chủ.
Thứ hai, xuất phát từ quan điểm “chế độ nào có pháp luật ấy” và sự vận động biến đổi lớn từ thực tiễn nên pháp luật nước ta luôn cần được xây dựng, sửa đổi, bổ sung và phát triển hoàn thiện. Đặc biệt, mới đây, ngày 16/6/2025 Quốc hội đã chính thức biểu quyết thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 2013. Có như vậy, pháp luật mới phát huy vai trò là công cụ điều tiết, quản lý xã hội hữu hiệu.
Thứ ba, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Có thể nói, vai trò của pháp luật trong điều kiện phát triển bình thường của xã hội vốn đã quan trọng thì nó lại càng trở nên quan trọng hơn nhiều lần ở một xã hội đang trải qua những biến đổi sâu sắc và toàn diện như nước ta hiện nay. Kinh nghiệm lịch sử đã chỉ ra rằng: “Một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của các cuộc cải cách, đó là người ta đã đặt các cuộc cải cách xã hội tách biệt với pháp luật. Một khi pháp luật bị đặt ra ngoài các quá trình biến đổi xã hội hoặc bị hạ thấp hay phớt lờ thì tất yếu các cải cách ấy hoặc là mang tính nửa vời, thậm chí chết yểu, hoặc là gây nên những đảo lộn nghiêm trọng đối với đời sống xã hội, xô đẩy xã hội vào những nguy cơ khủng hoảng”[4].
5. Thay lời kết
Thực tế đời sống pháp luật ở nước ta hiện nay là một bức tranh đa sắc màu, chiều hướng tích cực tồn tại bên cạnh những bất cập, hạn chế. Một mặt, pháp luật luôn cho thấy là công cụ sắc bén trong việc phản ánh, cụ thể hoá kịp thời những đường lối chủ trương phát triển của Đảng, tạo dựng được môi trường và hành lang pháp lý cần thiết, an toàn cho mọi hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội… Trong xã hội, thói quen xem thường pháp luật vốn dĩ là tàn dư của xã hội cũ bị loại bỏ, ý thức sống và làm theo pháp luật được hình thành và phát triển phổ biến. Người dân đã biết dùng pháp luật và dựa vào pháp luật để tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình. Đã có nhiều vụ dân kiện cán bộ hoặc chính quyền, đoàn thể và giành được thắng lợi[5]. Điều đó chứng minh rằng chân lý không phải thuộc về kẻ mạnh, có tiền có quyền. Công tác kiểm tra, giám sát, xử lý những hành vi vi phạm pháp luật được tiến hành kịp thời và nghiêm minh theo pháp luật. Nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, đã được phát hiện, xử lý nghiêm minh. Nguyên tắc “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” được duy trì, không ai có quyền đứng trên hoặc ngoài vòng pháp luật và pháp luật đủ sức trừng trị những kẻ phạm pháp dù ở cương vị nào…
Công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật ở nước ta qua 20 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Hệ thống pháp luật Việt Nam không ngừng hoàn thiện và phát triển cơ bản, cân đối trên mọi lĩnh vực. Trước năm 2005, hệ thống pháp luật chủ yếu được chú trọng xây dựng trong lĩnh vực kinh tế, nhưng đến nay, hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đều có văn bản quy phạm pháp luật ở tầm luật điều chỉnh, cơ bản thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn đường lối, chủ trương của Đảng, không chỉ góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, mà còn bảo đảm xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tôn trọng, bảo vệ quyền con người, chủ động hội nhập quốc tế của đất nước.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đánh giá kết quả sau 35 năm đổi mới: “Hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước cơ bản. Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực”[6].
Tuy nhiên, mặt khác trật tự an toàn xã hội, văn hóa pháp lý vẫn đang tồn tại nhiều hạn chế, khuyết điểm được Đảng thẳng thắn nhìn nhận: “Công tác bảo vệ an ninh trong một số lĩnh vực còn có những thiếu sót; xử lý tình hình phức tạp nảy sinh ở cơ sở có lúc, có nơi còn bị động, tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở một số địa bàn còn diễn biến phức tạp”[7]. Đặc biệt, “Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác; án tồn đọng, án bị hủy, bị cải sửa còn nhiều. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội”[8]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII nhận định: “Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước”[9]. Văn kiện còn ra chỉ hạn chế yếu kém thuộc về trách nhiệm công dân là: “Giám sát, phản biện xã hội trong xây dựng và thực thi pháp luật, chính sách hiệu quả chưa cao”[10]… Có thể nói, pháp chế xã hội chủ nghĩa tăng cường chưa đủ mạnh và trật tự pháp luật cũng chưa đảm bảo theo yêu cầu của sự phát triển bền vững. Chính vì vậy, mỗi công dân chúng ta cần phải tích cực đấu tranh chống và phòng ngừa những hành vi vi phạm pháp luật một cách thường xuyên và kiên quyết để thiết lập và bảo đảm trật tự pháp luật làm cơ sở cho việc củng cố và duy trì trật tự xã hội./.
[1]. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Sđd, t.5, tr.473.
[2]. Hồ Chí Minh (1985): Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội, tr.158.
[3]. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Sđd, t.6, tr.466.
[4]. Viện Nhà nước và pháp luật (1994): Xã hội và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.33.
[5]. Ngày 23/9/2009, Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc (tỉnh Bình Thuận) ra quyết định tuyên buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện này thua kiện bằng việc phải bàn giao lô đất diện tích 106m2 tại thôn Phú Hòa, xã Hàm Trí (Hàm Thuận Bắc) cho ông Nguyễn Đức Thông (33 tuổi) và bồi thường ông Thông 89,8 triệu đồng. Xem: www. tuoitre.com.vn/Binh-Thuan-mot-chu-tich-UBND-huyen-thua-kien-nguoi-dan/3249573.epi
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t1, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr.71-72.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.170.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.172.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd. t1, tr.89-90.
[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd. t2, tr.75.