Cách đây 80 năm, phong trào “Bình dân học vụ” do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động là một biểu tượng của lòng quyết tâm, ý chí, tinh thần đoàn kết giúp người dân thoát nạn mù chữ, tiếp cận tri thức, củng cố, xây dựng chính quyền cách mạng non trẻ mới thành lập. Ngày nay, trong kỷ nguyên số và hướng tới xã hội thông minh, tinh thần ấy được kế thừa và phát triển với phong trào “Bình dân học vụ số”
Từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Bình dân học vụ”
Cách mạng tháng Tám thành công mở ra trang sử mới cho dân tộc Việt Nam, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhân dân ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do. Bên cạnh những thuận lợi, Chính phủ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, nhất là nạn đói, nạn dốt và giặc ngoại xâm. Dưới sự cai trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam bị thất học, “95% dân chúng Việt Nam không biết một thứ chữ gì. Riêng với phụ nữ, nạn mù chữ rất nặng nề với tỷ lệ 97,1% - 99,7%. Tính ra trong 100 người dân chỉ có 3 trẻ em từ 8 đến 16 tuổi được đi học, 2 người lớn biết chữ, còn 95 người mù chữ. Đó là chưa kể đến vùng thôn xóm hẻo lánh hay vùng đồng bào thiểu số, ở đó, tỷ số người thất học lên tới 100%”[1].
Trước tình trạng dân đói, dân không biết chữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”[2] “Dốt thì dại, dại thì hèn. Vì không chịu dại, không chịu hèn cho nên thanh toán nạn mù chữ là một trong những việc cấp bách và quan trọng của nhân dân các nước dân chủ mới”[3].
Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Về kháng chiến kiến quốc”, nêu rõ: “... tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ, cổ động văn hoá cứu quốc”[4].
Cùng với việc bàn các biện pháp chống “giặc đói”, “giặc ngoại xâm” và thực thi các quyền tự do, dân chủ thì các biện pháp chống “giặc dốt”, xóa nạn mù chữ đã được Đảng, Chính phủ quan tâm và đặt ra ngay từ những ngày đầu và trở thành nhiệm vụ cấp thiết trong lúc này.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”[5]. Từ đó, Người “đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ” và coi đó là bước đột phá đầu tiên để nâng cao dân trí.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào bình dân học vụ cách đây 80 năm (Ảnh tư liệu)
Thực hiện chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa xây dựng nền giáo dục mới, các địa phương coi việc xây dựng nền giáo dục mới, xác định thanh toán nạn mù chữ cho nhân dân là một trong ba nhiệm vụ trọng tâm lúc này; đồng thời hưởng ứng lời kêu gọi toàn dân “Chống nạn thất học” ngày 14/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy góp sức vào bình dân học vụ, như các anh chị em trong sáu, bảy năm nay đã gây phong trào truyền bá quốc ngữ, giúp đồng bào thất học. Phong trào chống giặc dốt được phát động rộng rãi trong cả nước, khắp nơi có khẩu hiệu “Tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu phương trừ giặc dốt”, “Thêm một người đi học là thêm một viên gạch xây nền độc lập của nước nhà”…
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhiệm vụ chống “giặc dốt” đã nhanh chóng thấm sâu vào tâm trí của mọi người dân, làm thức dậy lòng tự tôn dân tộc. Phong trào Bình dân học vụ trở thành một phong trào quần chúng rộng rãi; người dạy phải đi sát người học, động viên người học; đồng thời áp dụng những hình thức và phương pháp thích hợp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra cách học đơn giản nhưng hiệu quả: Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ (...). Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi.
Ngày 8/10/1945, đến dự buổi khai giảng lớp Huấn luyện cán bộ Bình dân học vụ đầu tiên mang tên Hồ Chí Minh tại Hà Nội, Người nêu khẩu hiệu: “Chống nạn thất học cũng như nạn ngoại xâm”.
Thực hiện phương châm đó, chỉ trong vòng 1 năm (từ ngày 08/9/1945 đến ngày 08/9/1946), đã có 9,5 vạn người xung phong làm giáo viên (nhiều hơn 50 lần số người mà Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ dạy được trong 7 năm dưới sự kìm hãm của thực dân Pháp)[6].
Để huấn luyện các “chiến sĩ diệt giặc dốt”, Nha Bình dân học vụ mở 3 lớp huấn luyện, lớp đầu tiên lấy tên là khóa “Hồ Chí Minh” có 82 người tham dự là những nhà sư phạm, những ủy viên giáo dục và nhiều người là trung kiên cốt cán của Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ ở khắp các tỉnh Bắc Bộ. Lớp học khai giảng ngày 09/10/1945, có các Bộ trưởng, Thứ trưởng tham dự; Ở Trung Bộ, mở khóa “Phan Thanh” từ ngày 15 đến 24/11/1945, có 67 người tham dự.
Thực hiện chủ trương của Nhà nước về việc mở lớp huấn luyện cán bộ bình dân học vụ cho các đại biểu dân tộc thiểu số, từ ngày 25/6 đến 27/7/1946, tại Hà Nội mở khóa “Đoàn kết” với sự tham gia của 75 người của 14 dân tộc thiểu số thuộc các tỉnh miền núi Bắc Bộ và Trung Bộ. Những cán bộ do Nha Bình dân học vụ Trung ương đào tạo ở 3 khóa trên là những người đầu tiên đặt nền móng cho phong trào Bình dân học vụ. Từ đây đội ngũ các “chiến sĩ diệt giặc dốt” ngày càng được mở rộng, họ tỏa đi khắp các địa phương vận động quần chúng tích cực học chữ. Nha Bình dân học vụ tổ chức in ấn các sách Vần quốc ngữ, Phương pháp dạy vần quốc ngữ, Sách tập đọc lớp sơ cấp bình dân... phục vụ các lớp bình dân học vụ, với chủ trương thành lập Tủ sách dân chúng, biên soạn những loại sách kiến thức phổ thông, phục vụ cách mạng và đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
Sau hơn một năm phát động, đến ngày 08/9/1946, cả nước đã có thêm 2.520.600 người biết đọc, biết viết; đã có 75.806 lớp học được mở với sự tham gia của 97.664 người dạy học, cung cấp cho phong trào 2.500.000 cuốn sách[7].
Chỉ trong vòng một năm, có 3 triệu người đã biết chữ trong tổng số 15 triệu người chưa biết chữ lúc bấy giờ. Phong trào Bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ không những giúp cho hàng nghìn người biết đọc, biết viết, nâng cao hiểu biết về cách mạng, trau dồi nhiệt tình, đạo đức cách mạng, động viên nhân dân tham gia công cuộc kháng chiến ở địa phương, đồng thời trở thành hình ảnh sinh động của chế độ mới, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với cuộc kháng chiến thực dân Pháp xâm lược.
...đến “Bình dân học vụ số” trong phát triển kỷ nguyên số hôm nay
Vận dụng, phát triển sáng tạo những giá trị tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phong trào “Bình dân học vụ” năm 1945 nhằm xóa mù chữ và nâng cao dân trí, phong trào “Bình dân học vụ số” mang trong mình sứ mệnh mới phổ cập kỹ năng số, giúp mọi người dân có thể tiếp cận, sử dụng và làm chủ công nghệ một cách hiệu quả.
Là người phát động phong trào “Bình dân học vụ số”, Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số nhấn mạnh: “Chúng ta không chỉ kế thừa di sản quý báu của lịch sử, mà còn phải biết ứng dụng nó vào thực tiễn hiện nay. Việc trang bị tri thức số sẽ giúp người dân tự tin hơn trong môi trường số, chủ động nắm bắt cơ hội và thích nghi với sự phát triển của công nghệ”[8].
Với phương châm “Kiến thức là nền tảng, công nghệ là công cụ để tiến xa”, phong trào này không chỉ dựa vào chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, mà còn chú trọng nâng cao nhận thức, khuyến khích từng cá nhân tự học, chủ động tham gia vào không gian số, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước.
Sự ra đời của phong trào “Bình dân học vụ số” nằm trong tổng thể các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi số toàn diện quốc gia, đặc biệt sau khi Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 91-KL/TW ngày 12/8/2024 của Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Trong bối cảnh đó, việc khơi dậy tinh thần học tập suốt đời, tự học, tự cập nhật tri thức số của mỗi người dân trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, tương tự như tinh thần “người người đi học chữ” những năm 1945-1946. Đây là tiền đề để bảo đảm tính bao trùm, bền vững cho chiến lược chuyển đổi số quốc gia.
Tỉnh Quảng Bình (nay thuộc tỉnh Quảng Trị) phát động phong trào "Bình dân học vụ số
Triển khai chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, ngay từ đầu năm 2025, phong trào “Bình dân học vụ số” đã được các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương hưởng ứng mạnh mẽ: Trung ương thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới, sáng tạo và chuyển đổi số do Tổng Bí thư Tô Lâm làm Trưởng ban. Quân ủy Trung ương có Ban Chỉ đạo Quân ủy Trung ương về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong Quân đội (gọi tắt là Ban Chỉ đạo 3488). Ngày 26/3/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Lễ phát động phong trào và ra mắt nền tảng “Bình dân học vụ số”. Trong một thời gian ngắn, phong trào “Bình dân học vụ số” đã đạt được những kết quả nổi bật: “Tỉ lệ dịch vụ công trực tuyến toàn trình đạt 45%, hơn 93 triệu lượt đăng nhập Cổng Dịch vụ công quốc gia bằng nền tảng VNeID. Hạ tầng số phát triển mạnh mẽ, đã thương mại hóa 5G, tốc độ internet quốc tế tăng mạnh; 96,4% thôn, bản đã có internet cáp quang, 82,9% hộ gia đình sử dụng internet cáp quang băng rộng. Kinh tế số có bước phát triển vượt bậc, đóng góp 18,3% GDP, với tốc độ tăng trưởng 20% mỗi năm. Thương mại điện tử tiếp tục phát triển mạnh mẽ (năm 2024 đạt 28 tỷ USD, tăng 36%)…
Dữ liệu số được xây dựng và đẩy mạnh khai thác, với 10 cơ sở dữ liệu quốc gia trọng điểm, trong đó cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã kết nối với 18 bộ, ngành, 63 địa phương, phục vụ hơn 1,8 tỷ lượt truy vấn. Việt Nam hiện triển khai 3 nền tảng thực hiện phong trào "Bình dân học vụ số" trong đó nền tảng học trực tuyến mở đại trà MobiEdu và One Touch đào tạo cho hơn 1,2 triệu lượt cán bộ, công chức, viên chức và người lao động, phổ cập kỹ năng số miễn phí cho hơn 40 triệu lượt người; nền tảng "Bình dân học vụ số" đã đào tạo 200 nghìn lượt cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang”[9].
Tám mươi năm trước, phong trào “Bình dân học vụ” được phát động và mang lại những kết quả quan trọng, góp phần củng cố, xây dựng chính quyền cách mạng mới ra đời. Tám mươi năm sau, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, Đảng và Nhà nước ta chỉ đạo và phát động phong trào “Bình dân học vụ số” nhằm xây dựng một xã hội không chỉ giàu tri thức mà còn giàu sức mạnh công nghệ, sẵn sàng hội nhập, phát triển, coi tri thức là chìa khóa, công nghệ là cánh cửa để mở ra một tương lai tươi sáng hơn, xây dựng xã hội tiến bộ trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.
[1] Vũ Ngọc Bình: “Chống nạn mù chữ ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5 (1990), tr. 24, tr. 26.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011,t. 4, tr 7.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr 125.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr 28.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr 40.
[6] Đinh Quang Hải (Chủ biên): Lịch sử giáo dục miền Bắc Việt Nam (từ năm 1945 đến năm 1975), Nxb KHXH, H, 2020, tr. 39.
[7] Đinh Quang Hải (Chủ biên): Lịch sử giáo dục miền Bắc Việt Nam (từ năm 1945 đến năm 1975), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2020, tr. 41.
[8] https://baochinhphu.vn/binh-dan-hoc-vu-so-nen-tang-cho-su-phat-trien-trong-ky-nguyen-so-102250327113127019.htm, truy cập ngày 5/9/2025
[9] Thủ tướng phát động phong trào 'Bình dân học vụ số' toàn dân, https://baochinhphu.vn, ngày 26-3-2025.