Từ Quốc dân Đại hội Tân Trào đến Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I thể hiện rõ nét tư duy chính trị độc đáo, phương pháp cách mạng sáng tạo và bản chất dân chủ sâu sắc của cách mạng Việt Nam, minh chứng thuyết phục về năng lực kiến tạo một nhà nước cách mạng hợp hiến, hợp pháp và hợp lòng dân
Từ Quốc dân Đại hội – “Hội nghị Diên Hồng” của thời đại Hồ Chí Minh…
Từ đầu năm 1945, cục diện thế giới chuyển biến mạnh mẽ. Phát xít Đức bị tiêu diệt, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, đang mở ra nhiều cơ hội giành chính quyền của cách mạng Việt Nam. Trong khi đó, phong trào cách mạng trong nước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là tại các khu căn cứ cách mạng và thành thị. Thời cơ tổng khởi nghĩa đã chín Ngay sau Hội nghị toàn quốc của Đảng, ngày 16–17/8, Quốc dân Đại hội được triệu tập tại Tân Trào,Tuyên Quang – “Thủ đô lâm thời của cách mạng”.
Hơn 60 đại biểu ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, đại biểu kiều bào ở nước ngoài; đại biểu các đảng phái, các đoàn thể, dân tộc, tôn giáo đã quy tụ về Đại hội. Đây là biểu hiện rõ nét cho một hình thức dân chủ cách mạng, thể hiện sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.
Tại Đại hội, nhiều vấn đề chiến lược đã được thảo luận và thống nhất thông qua.
Đại hội đã tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và xác định giành chính quyền là nhiệm vụ cấp bách;
Đại hội thông qua 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, đặt cơ sở cho việc xây dựng một quốc gia dân chủ mới và xác định nền tảng của một xã hội dân chủ, bình đẳng, bác ái;
Đại hội thành lập Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch; Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch và các ủy viên[1]. Ủy ban giải phóng dân tộc được trao sứ mệnh “thay mặt quốc dân mà giao thiệp với nước ngoài và chủ trì mọi công việc trong nước”[2]. Có thể nói, đây là hình thức Chính phủ lâm thời, có tính pháp lý và đại diện dân tộc.
Tranh tư liệu tái hiện Quốc dân Đại hội Tân Trào, Tuyên Quang 16-17/8/1945
Quốc dân Đại hội Tân Trào không chỉ là sự kiện chính trị, mà còn mang tính biểu tượng văn hóa, được ví như Hội nghị Diên Hồng, thể hiện quyết tâm “giành độc lập, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ mới” của dân tộc Việt Nam.
Quyết tâm cách mạng được thể hiện đanh thép qua lời tuyên thệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh “kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết không lùi bước”[3].
Cao hơn nữa, quyết tâm giành chính quyền và xây dựng thể chế mới còn được thể hiện qua hình thức “trưng cầu ý chí nhân dân” với đại biểu đại diện cho ý chí và nguyện vọng của các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài.
Quốc dân Đại hội có ý nghĩa như một “Quốc hội tiền thân” trong bối cảnh đất nước chưa giành được độc lập, Quốc hội chính thức chưa ra đời . Quốc dân Đại hội thực sự đại biểu cho ý chí và nguyện vọng của toàn dân.
…đến Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I – cụ thể hóa quyền làm chủ của nhân dân
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã nhanh chóng nổ ra và giành thắng lợi. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu mốc son lịch sử có tính bước ngoặt trong lịch sử dân tộc.
Đất nước đã giành độc lập, nước Việt Nam mới ra đời, trong vòng vây của thù trong, giặc ngoài, yêu cầu cấp bách phải xây dựng một Nhà nước hợp hiến, hợp pháp.
Trong hoàn cảnh đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Phải sớm tổ chức tổng tuyển cử để thành lập Quốc hội – Cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân, thể hiện bản chất dân chủ của chính quyền mới và giành lấy tính chính danh trong và ngoài nước. Đồng thời, xác định Tổng tuyển cử là bước đi đầu tiên và quan trọng để nhân dân trực tiếp lựa chọn cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước.
Ngày 8/9/1945, Chủ tịch nước công bố Sắc lệnh số 14-SL về việc mở cuộc tổng tuyển cử để bầu Quốc dân Đại hội. Tiếp đó, ngày 17/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 51-SL, quy định chi tiết thể lệ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở Việt Nam. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả công dân, trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống…”[4] – một tiến bộ chưa từng có trong lịch sử Việt Nam lúc đó.
Ngày 6/1/1946, tổng tuyển cử bầu Quốc hội diễn ra trên phạm vi cả nước. Cuộc bầu cử diễn ra sôi nổi, dân chủ, với hàng loạt hoạt động vận động, tuyên truyền trực tiếp trong nhân dân. Tỷ lệ cử tri đi bầu rất cao, trung bình là 85%, có nơi đạt 95% . Trong khu vực chiến tranh, cuộc bỏ phiếu vẫn được tiến hành. Nhân dân cả nước đã bầu 333 đại biểu vào Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Số đại biểu công nhân, nông dân, chiến sĩ cách mạng chiếm 87%; có 10 đại biểu là phụ nữ, 34 đại biểu thuộc các dân tộc thiểu số[5].
Sau bầu cử, Quốc hội khóa I đã họp kỳ đầu tiên, quyết định những vấn đề trọng đại: Thông qua danh sách Chính phủ chính thức, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu; quyết định Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc hiệu; cử Ban soạn thảo Hiến pháp - Văn bản lập hiến đầu tiên của nước Việt Nam mới. Sự hình thành Nhà nước dân chủ có Quốc hội, Chính phủ và Hiến pháp rõ ràng là kết quả trực tiếp của việc nhân dân thực thi quyền làm chủ thông qua lá phiếu.
Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I là sự kiện đánh dấu một bước tiến lớn của cách mạng Việt Nam. Chỉ vài tháng sau khi giành được độc lập, trong điều kiện thù trong giặc ngoài, bao vây, một kỳ bầu cử dân chủ, bình đẳng, đoàn kết toàn dân đã được tổ chức thành công. Từ giành chính quyền đến xây dựng thể chế dân chủ nhân dân bằng con đường bầu cử, việc tổ chức tổng tuyển cử thể hiện một bước tiến vững chắc trong tiến trình dân chủ hóa chính quyền cách mạng; xây dựng chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện nghĩa vụ cử tri bầu cử Quốc hội khóa I ngày 06/01/1946 (Ảnh tư liệu)
Từ Quốc dân Đại hội Tân Trào đến Quốc hội khóa I - Nét độc đáo của cách mạng Việt Nam
Từ Quốc dân Đại hội Tân Trào đến Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh giành chính quyền và xây dựng thiết chế dân chủ. Ngay sau khi giành chính quyền, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động tổ chức đại hội nhân dân và chuẩn bị tiến hành tổng tuyển cử – thể hiện sự thống nhất giữa đấu tranh cách mạng và xây dựng dân chủ pháp lý. Từ Quốc dân Đại hội Tân Trào đến Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I thể hiện sự chuyển tiếp từ khởi nghĩa giành chính quyền đến xây dựng nhà nước pháp quyền diễn ra nhanh chóng, hợp lý, có tính kế thừa dân chủ cao. Đây là mô hình rất khác biệt so với nhiều nước châu Á hoặc Mỹ Latinh, nơi chính quyền cách mạng thường lâm vào khủng hoảng tính chính danh, đi theo mô hình tập trung quyền lực tạm thời, không qua bầu cử.
Cả Quốc dân Đại hội lẫn Tổng tuyển cử đều thể hiện tư tưởng đại đoàn kết dân tộc. Việc kêu gọi, khuyến khích các lực lượng yêu nước không phải là Việt Minh tham gia bầu cử, tham gia Quốc hội, Chính phủ cho thấy tinh thần khoan dung, dân chủ và hòa hợp dân tộc vì mục tiêu độc lập và phát triển đất nước.
Các sự kiện trên đã xác lập cơ cấu chính quyền mới – chính quyền của dân, do dân, vì dân, thay thế bộ máy chính quyền thực dân, phong kiến. Quốc hội, Chính phủ và Hiến pháp được hình thành, đã bảo đảm tính liên tục, hợp pháp và chính danh của Nhà nước cách mạng.
Từ Quốc dân Đại hội Tân Trào đến Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I thể hiện quan điểm của Đảng lấy “dân làm gốc”. Tư tưởng đó được hiện thực hóa thành cơ chế chính trị. Từ nghị quyết đến thực tiễn, từ lời nói đến hành động, quyền làm chủ của nhân dân không chỉ được ghi nhận mà còn được thực thi – thể hiện bằng lá phiếu phổ thông đầu phiếu.
Từ Quốc dân Đại hội Tân Trào đến Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I là một hành trình ngắn về thời gian nhưng dài về ý nghĩa lịch sử. Đó là biểu hiện của trí tuệ, bản lĩnh, tầm nhìn chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng thể chế chính trị, thiết lập nền dân chủ đầu tiên trong lịch sử nước ta.
[1] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I, 1930-1954, quyển 1 (1930-1945), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr 690
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr 560-561.
[3] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I, 1930-1954, quyển 1 (1930-1945), Sđd, tr 691.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr 2.
[5] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I, 1930-1954, quyển 2 (1945-1954), Sđd, tr 54.