Từ Quốc dân Đại hội Tân Trào đến Tổng tuyển cử đầu tiên là quá trình hoàn thiện thể chế Nhà nước Việt Nam mới dựa trên bệ đỡ thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám và diễn ra trong khoảng thời gian nhanh kỷ lục của những ngày sôi sục tinh thần cách mạng và yêu cầu cấp bách xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân

Quốc dân Đại hội Tân Trào - Tiền thân của Quốc hội Việt Nam

Trong quá trình chuẩn bị cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, tháng 10/1944, trước chuyển biến nhanh chóng của tình hình thế giới có lợi cho cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho quốc dân đồng bào, thông báo chủ trương triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân để thành lập một “cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta”[1] tạo nên sức mạnh dân tộc bên trong và tranh thủ ngoại viện của quốc tế nhằm chớp thời cơ thuận lợi thực hiện cho được mục tiêu độc lập, tự do.

Vì vậy, giữa tháng 8/1945, khi phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng các nước Đồng Minh và lực lượng cách mạng Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong cả nước, ngày 16/8/1945, tại đình Tân Trào (Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh khai mạc Đại hội đại biểu quốc dân (còn gọi là Quốc dân Đại hội Tân Trào). Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu đại diện cho cả 3 miền Bắc - Trung - Nam, đại diện cho các ngành, các giới, các dân tộc, các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc và một số Việt kiều ở Thái Lan và Lào để bàn kế hoạch Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.

Đại hội đại biểu quốc dân đã thông qua ba quyết định lớn: 1)Nhất trí tán thành chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh; 2) Thông qua 10 chính sách của Việt Minh và hiệu triệu đồng bào tích cực phấn đấu thực hiện, trong đó điểm mấu chốt đầu tiên là giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập; 3) thành lập Uỷ ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Quốc dân Đại hội Tân Trào là mốc son trong lịch sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam, là tiền thân của Quốc hội Việt Nam, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Việt Nam quốc dân đại biểu Đại hội cử ra Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam để lãnh đạo toàn quốc nhân dân kiên quyết đấu tranh kỳ cho nước được độc lập. Đó là một tiến bộ rất lớn trong lịch sử tranh đấu giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay. Đó là một điều khiến cho đồng bào ta phấn khởi và riêng tôi hết sức vui mừng”.

Quốc dân Đại hội chuẩn bị nền tảng cho thể chế nhà nước Việt Nam mới (Tranh tư liệu lịch sử)

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và khẩn trương chuẩn bị Tổng tuyển cử 

Thực hiện lời kêu gọi tổng khởi nghĩa của Mặt trận Việt Minh, nhân dân Việt Nam đã nhất tề nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, tiêu biểu là khởi nghĩa ở Hà Nội (ngày 19/8/1945), Huế (ngày 23/8/1945), Sài Gòn (ngày 25/8/1945).

Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng chục vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Cách mạng Tháng Tám thành công, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, đưa nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập dưới chế độ dân chủ cộng hòa; đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người dân làm chủ vận mệnh của đất nước. Tuy nhiên vận mệnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong giặc ngoài...

Để giữ vững và xây dựng được chính quyền cách mạng ngày càng vững mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tìm người hiền tài để giúp dân, cứu nước. Phát biểu tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, tức một ngày sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống ....”[2].

Do đó, ngày 08/9/1945 Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 14/SL về cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên để bầu Quốc hội. Bản Sắc lệnh đã nhấn mạnh yêu cầu bức thiết của Tổng tuyển cử, đồng thời chỉ rõ chúng ta có đủ cơ sở pháp lý, điều kiện khách quan và chủ quan để tiến hành cuộc Tổng tuyển cử đó; và quy định: “Trong một thời hạn hai tháng kể từ ngày ký Sắc lệnh này sẽ mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu quốc dân đại hội. Tất cả công dân Việt Nam, cả trai và gái, từ 18 tuổi trở lên, đều có quyền tuyển cử và ứng cử, một Ủy ban dự thảo Hiến pháp bảy người sẽ được thành lập”[3].

Ngày 16/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định thể lệ cuộc Tổng tuyển cử. Tiếp đó, Chính phủ lâm thời đã ban hành các Sắc lệnh để xúc tiến công việc chuẩn bị cụ thể cho việc Tổng tuyển cử như: Sắc lệnh số 34/SL ngày 20/9/1945 về việc thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp[4]; Sắc lệnh số 39/SL ngày 26/9/1945 về việc thành lập Uỷ ban dự thảo Thể lệ cuộc Tổng tuyển cử[5], trong đó có đại diện của các ngành, các giới.

Cách mạng tháng Tám thắng lợi, bệ đỡ vững chắc cho cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Ảnh tư liệu)

Ngày 17/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 51/SL quy định thể lệ Tổng tuyển cử gồm 70 điều trong đó, quy định cuộc Tổng tuyển cử phải được tiến hành theo lối phổ thông đầu phiếu, bầu cử trực tiếp và bí mật, đồng thời ấn định thời gian Tổng tuyển cử toàn quốc vào ngày 23/12/1945. Tuy nhiên, do Điều thứ 11 của Sắc lệnh số 51/SL vẫn còn một số điểm chưa phù hợp, đến ngày 02/12/1945, Chính phủ ra Sắc lệnh số 71/SL để sửa đổi, bổ sung Sắc lệnh 51/SL về thủ tục ứng cử: Vì sự giao thông hiện thời khó khăn, người ứng cử có thể gửi đơn ứng cử ngay cho Ủy ban Nhân dân nơi mình trú ngụ, và yêu cầu Ủy ban Nhân dân ấy điện cho Ủy ban Nhân dân nơi mình xin ứng cử. Đơn và giấy chứng thực đủ điều kiện sẽ do Ủy ban Nhân dân nơi trú ngụ chuyển sau cho Ủy ban Nhân dân nơi ứng cử... để tạo điều kiện cho những người có quyền ứng cử và có nguyện vọng ứng cử có đủ thời gian ứng cử và vận động tuyển cử.

Ngày 08/12/1945, Chính phủ ra Sắc lệnh số 76/SL hoãn ngày Tổng tuyển cử đến ngày 06/01/1946 và kéo dài hạn nộp đơn ứng cử đến hết ngày 27/12/1945.

Với niềm tin vào Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã một lòng ủng hộ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của dân tộc. Nhiều người có tài, có đức đã tự ứng cử hoặc được quần chúng giới thiệu ra ứng cử. Danh sách các cử tri và ứng cử viên được niêm yết công khai. Quần chúng sôi nổi trao đổi, tranh luận, chất vấn nhằm lựa chọn được những người xứng đáng nhất làm đại diện của mình, hạn chế tới mức tối đa những phần tử cơ hội lợi dụng dịp Tổng tuyển cử để tranh giành quyền chức.

Tại các địa phương, Nhân dân ta nô nức kéo về trụ sở chính quyền các tỉnh thành, huyện lỵ mít tinh hoan nghênh Tổng tuyển cử và ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh.

Tại Hà Nội, Chủ tịch Ủy ban nhân dân và đại biểu các làng xã đã công bố một bản kiến nghị “Yêu cầu cụ Hồ Chí Minh được miễn phải ứng cử trong cuộc Tổng tuyển cử sắp tới vì Cụ đã được toàn dân suy tôn làm Chủ tịch vĩnh viễn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.

(Còn tiếp)

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 537.

[2]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr.7.

[3]Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 3, tr.7,8.

[4] Gồm: 7 người Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy, Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu.

[5] Gồm 9 người:Trần Huy Liệu, Vũ Đình Hoè, Cù Huy Cận, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Hữu Đặng, Lê Văn Giang, Nguyễn Văn Chức, Nguyễn Hữu Tiêu, Cô Tám Kinh (phụ nữ).