Sự cần thiết phải sáp nhập
Việt Nam trước đây có tới 63 tỉnh, thành phố. Cấu trúc hành chính này vốn hình thành trong bối cảnh lịch sử đặc thù, nhưng đến nay đã bộc lộ rõ những giới hạn và trở thành một lực cản lớn đối với hiệu quả quản lý nhà nước cũng như phát huy mọi nguồn lực để phát triển đất nước trong kỷ nguyên phát triển mới.
Nhiều tỉnh quá nhỏ để phát triển độc lập, với dân số dưới 1 triệu người, thậm chí chỉ 300- 400 ngàn người, nguồn thu ngân sách thấp, cơ sở hạ tầng manh mún và mức độ phụ thuộc vào ngân sách trung ương rất cao. Hơn nữa, bộ máy hành chính dàn trải, mỗi tỉnh có đầy đủ sở, ban, ngành dẫn đến tình trạng trùng lặp chức năng, chồng chéo nhiệm vụ và chi phí phục vụ cho bộ máy hành chính rất lớn. Bên cạnh đó, ranh giới địa giới hành chính cứng nhắc cũng đang cản trở nghiêm trọng việc tổ chức quy hoạch vùng, phát triển hạ tầng kết nối liên tỉnh và tối ưu hóa chuỗi giá trị theo không gian kinh tế.
Trong khi đó, Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển theo chiều sâu, khi mà nơi tăng trưởng không thể tiếp tục dựa vào khai thác tài nguyên hay lao động giá rẻ, mà phải dựa vào năng suất, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và liên kết vùng hiệu quả. Những mục tiêu đó đòi hỏi các đơn vị hành chính phải có quy mô đủ lớn để quy hoạch dài hạn, hấp thụ đầu tư chiến lược, tổ chức không gian phát triển và điều phối các dòng vốn, dòng lao động, dòng công nghệ trên phạm vi vùng.
Mô hình hành chính nhỏ, manh mún như hiện nay không còn đủ sức phục vụ các chiến lược phát triển mới. Sáp nhập tỉnh chính là cách thiết kế lại đơn vị hành chính để phù hợp với yêu cầu phát triển thời đại. Do đó, hơn lúc nào hết, thời điểm hiện nay hội tụ đủ các điều kiện để hành động.
Việc sáp nhập các tỉnh/thành - giảm từ 63 xuống còn 34 là một cải cách hành chính cấp quốc gia với tầm vóc to lớn, không chỉ đơn thuần đổi bản đồ tỉnh thành, mà là một bước ngoặt tái cấu trúc toàn diện để xây dựng nền hành chính tinh gọn, hiện đại, đủ tầm đón đầu cơ hội trong kỷ nguyên mới.
Sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh không phải là đánh mất bản sắc địa phương, mà là để nâng tầm địa phương; không phải là xóa bỏ lịch sử, mà là viết tiếp một chương mới với quy mô lớn hơn, tầm vóc cao hơn. Do đó, đây là một quyết sách chiến lược mang tầm thời đại, xuất phát từ đòi hỏi cấp bách từ thực tiễn, đồng thời thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng ta về tương lai phát triển của đất nước.
Những bước chuyển mới được xác lập
Việc sáp nhập các tỉnh không chỉ là một cuộc cải cách hành chính đơn thuần, mà còn là đòn bẩy mạnh mẽ để kiến tạo các đơn vị hành chính có quy mô đủ lớn, đủ tầm phát triển và kết nối.
Một là, đó là điều kiện cần để hình thành các cực tăng trưởng mới trên bản đồ phát triển vùng. Các địa phương mới sẽ tạo ra không gian phát triển liên hoàn giữa đô thị trung tâm, vùng ven biển, đồng bằng và miền núi, từ đó kết nối chuỗi giá trị sản xuất - logistics - tiêu dùng - xuất khẩu một cách trọn vẹn.
Hai là, việc giảm từ 63 xuống còn 34 tỉnh thành sẽ kéo theo một sự tái cấu trúc toàn diện về bộ máy hành chính, giúp tinh gọn đầu mối và tiết kiệm chi phí vận hành đáng kể. Trước đây, mỗi tỉnh có trung bình từ 20 đến 22 sở, ngành cấp tỉnh. Ước tính cho thấy việc tinh giản này có thể giúp tiết kiệm đến cả nghìn tỷ đồng mỗi năm từ lương, chi thường xuyên và đầu tư trụ sở. Quan trọng hơn, những nguồn lực tiết kiệm được có thể tái đầu tư cho hạ tầng, giáo dục, y tế và chuyển đổi số - những lĩnh vực có sức lan tỏa lớn đến năng suất xã hội.
Ba là, các tỉnh quy mô lớn sẽ có năng lực tổ chức quy hoạch bài bản, triển khai chính sách kinh tế hiệu quả hơn và tăng sức cạnh tranh trong thu hút đầu tư. Theo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2024, các tỉnh có khả năng điều phối liên vùng như Quảng Ninh, Hải Phòng, Long An luôn nằm trong nhóm dẫn đầu. Ngược lại, những tỉnh nhỏ, thiếu kết nối và khó quy hoạch vùng thường tụt lại phía sau. Tỉnh lớn không chỉ thuận lợi trong đàm phán với các nhà đầu tư chiến lược mà còn hấp dẫn hơn với các tập đoàn xuyên quốc gia vốn yêu cầu quy mô thị trường và hạ tầng đủ tầm.
Bốn là, sáp nhập tạo điều kiện để sử dụng ngân sách hiệu quả hơn và tăng năng suất đầu tư công. Việc duy trì quá nhiều tỉnh nhỏ đang khiến ngân sách quốc gia bị phân tán, đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp. Khi hợp nhất, các dự án sẽ được chọn lọc kỹ hơn, nguồn vốn được tập trung và quản lý tốt hơn, từ đó nâng cao hiệu quả chi tiêu công.
Năm là, các tỉnh lớn có lợi thế vượt trội trong việc tổ chức không gian phát triển vùng và điều phối hạ tầng liên tỉnh. Sự phối hợp giữa các tỉnh trong quy hoạch giao thông, logistics hay thoát nước đô thị còn lỏng lẻo và bị cản trở bởi ranh giới hành chính. Khi sáp nhập, nhiều dự án hạ tầng sẽ không còn bị “cắt khúc” bởi địa giới, từ đó giúp nâng cao năng lực điều hành, đồng bộ hóa quy hoạch và khai thác hiệu quả hơn các nguồn lực.
Việc sáp nhập tỉnh không chỉ là một quyết định mang tính kỹ thuật mà là một quyết sách chiến lược, thể hiện bản lĩnh cải cách của Đảng, tầm nhìn phát triển của Quốc hội, Chính phủ và khát vọng vươn lên của cả dân tộc. Tuy nhiên, để chuyển nhanh mà vẫn vững, cần triển khai bài bản, đồng bộ và có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Trước hết, phải tổ chức lại bộ máy hành chính theo hướng tinh gọn nhưng hiệu quả. Việc quy hoạch lại cơ quan, sắp xếp trụ sở, phân bổ nhân sự và giải quyết chế độ cho cán bộ dôi dư cần bảo đảm minh bạch, công bằng và không gây xáo trộn xã hội. Bên cạnh đó, lộ trình thực hiện phải rõ ràng và khả thi. Khoảng thời gian ngắn đòi hỏi sự chỉ đạo quyết liệt từ Trung ương và sự vào cuộc nghiêm túc của địa phương.
Thành công cho bước chuyển mình cách mạng này sẽ là minh chứng cho năng lực kiến tạo và bản lĩnh hành động của Đảng, Quốc hội và Chính phủ với tư duy đổi mới và phát triển, dám đối diện với lực cản, trở ngại để mở đường cho một tương lai bền vững và toàn diện hơn. Để bước chuyển cách mạng này thật sự đi vào cuộc sống, cần sự đồng lòng, đồng chí, đồng bộ, đồng loạt, đồng thời của cả hệ thống chính trị, từ Trung ương đến cơ sở; của mỗi cán bộ, đảng viên, và đặc biệt là của Nhân dân.