Cách đây 80 năm, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do.

Tuyên ngôn độc lập - kết tinh tư duy sắc bén và thực tiễn sinh động

Tháng 8/1945, phát xít Nhật đầu hàng phe Đồng minh, quân đội và chính quyền tay sai rơi vào tình trạng hoang mang, tê liệt. Chớp thời cơ “ngàn năm có một”, Trung ương Đảng kịp thời hạ quyết tâm phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong phạm vi cả nước theo tinh thần: Dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập.

Nghe theo hiệu lệnh, cả dân tộc vùng lên như “bão táp”. Chỉ trong vòng 15 ngày, từ ngày 14 đến 28/8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền cả nước thực sự thuộc về tay nhân dân.

Cách mạng tháng Tám thành công, Trung ương Đảng đã cử đồng chí Lê Đức Thọ đón Bác Hồ từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội và nghỉ tại thôn Phú Gia, xã Phú Thượng, Từ Liêm (nay là phường Phú Thượng, thành phố Hà Nội). Sau đó, Bác về ở tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội. Tại ngôi nhà này, trong những ngày cuối tháng 8 năm 1945, Người đã dành phần lớn thời gian để soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), hơn 50 vạn người đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân hân hoan chờ đón thời khắc lịch sử của dân tộc. Sau lễ chào cờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời, trịnh trọng tuyên bố với quốc dân và thế giới sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về nền độc lập của dân tộc.

Nội dung của Tuyên ngôn Độc Lập, trên thực tế là kết quả trực tiếp của hoạt động không mệt mỏi về cả tư tưởng và tổ chức của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh kể từ khi Người viết Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc-xây (tháng 6/1919) đòi các nước tư bản thắng trận thực hiện những quyền sống, làm việc tối thiểu của người dân Việt Nam đang rên xiết dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Đó cũng là kết quả các bài báo của Nguyễn Ái Quốc viết về tình cảnh của người dân Việt Nam và người dân các nước thuộc địa khác, tố cáo chế độ áp bức, bóc lột của thực dân, được tập hợp trong cuốn sách Bản án chế độ thực dân Pháp, xuất bản năm 1925. Đó cũng là kết quả của các bài giảng do Người soạn dành cho các lớp học của những thanh niên yêu nước do Người mở ở Quảng Châu, Trung Quốc, sau đó được tập hợp lại thành cuốn sách Đường Kách mệnh (1927), một cẩm nang về chính trị, quân sự cho những người tham gia vào sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Đó cũng là kết quả được thể hiện cụ thể trong Chương trình Việt Minh do Người xác định khi thành lập Mặt trận Việt Minh (tháng 5/1941).

Như vậy, Tuyên ngôn độc lập là sự kết tinh cả về lý luận và thực tiễn hoạt động cách mạng của cuộc hành trình hơn 30 năm tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Với tầm nhìn xa, trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo âm mưu tái xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp khi Người khẳng định: sự thật là dân ta đã giành được chính quyền từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp và ý đồ can thiệp của các thế lực nước ngoài đối với Việt Nam là phi nghĩa, là đi ngược lại các quyền cơ bản của con người và quyền được có độc lập, tự do, hòa bình của dân tộc Việt Nam.

Giá trị của bản Tuyên ngôn Độc lập được nhân lên gấp bội khi được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện bằng những lời lẽ giản dị, dễ hiểu nhưng lập luận chặt chẽ, khúc triết. Với thực trạng hơn 90% dân số không biết đọc, biết viết, Người đã biết cách lôi cuốn người nghe bằng những ngôn từ súc tích, gọn rõ, vừa mang tính biểu cảm, gần gũi vừa thể hiện sự quyết tâm, kiên quyết bảo vệ nền độc lập mới giành được.

Giá trị trường tồn của Tuyên ngôn độc lập

Tuyên ngôn độc lập là văn bản pháp lý quan trọng đầu tiên khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định quyền tự do, độc lập của nhân dân ta trước toàn thế giới. Bản Tuyên ngôn khẳng định ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi của nhân dân Việt Nam quyết giữ vững quyền thiêng liêng: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”!

Có thể thấy, không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam ‑ kỷ nguyên độc lập, tự do, Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là sản phẩm của sự kết hợp các giá trị của truyền thống anh hùng, bất khuất và ý chí độc lập dân tộc của Việt Nam với sứ mệnh cao cả của giai cấp vô sản được đề cập trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (năm 1848). Tuyên ngôn độc lập khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của cách mạng thế giới; đồng thời khích lệ nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc đứng lên chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc.

Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn độc lập không chỉ góp phần khai sinh ra nước Việt Nam mà còn là nền tảng, nguồn cổ vũ lớn lao để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta chung sức, đồng lòng viết nên những trang sử hào hùng nhất ở thế kỷ XX. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, quân và dân ta đã lập những chiến công hiển hách, đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước.

Tuyên ngôn độc lập cũng là một văn kiện chính trị báo hiệu một thời đại mới, thời đại giải phóng các dân tộc khỏi sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn thế giới, giành lại quyền được sống trong độc lập, tự do; đồng thời thể hiện rõ khát vọng sống trong hoà bình, tự do với tinh thần kiên quyết “đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền độc lập, tự do”.

80 năm đã qua đi nhưng Tuyên ngôn độc lập vẫn là bản hùng ca bất diệt của dân tộc. Nó không chỉ thể hiện rõ khát vọng độc lập của một dân tộc anh hùng mà còn tiếp tục đồng hành cùng cả dân tộc trên chặng đường phát triển mới để hiện thực hóa khát vọng về một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.