Hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, trải dài hơn 70 km ven biển Thừa Thiên Huế, là một kỳ quan thiên nhiên hiếm có ở Đông Nam Á. Với sự giao thoa giữa sông, biển và đê cát hàng nghìn năm, nơi đây không chỉ giàu giá trị địa lý – sinh thái mà còn gắn liền với lịch sử, văn hóa xứ Huế.

Hình 1: Khu vực đầm phá Tam Giang - Cầu Hai [1]

Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai là một cảnh quan đầm phá nước lợ ven biển độc nhất vô nhị ở Đông Nam Á. Hệ đầm phá trải dài đến hơn 70 km, bao gồm phá Tam Giang, đầm Thanh Lam, đầm Hà Trung, đầm Thủy Tú, và đầm Cầu Hai. Hệ đầm phá là vùng chuyển tiếp nằm giữa phần thấp của đồng bằng Huế và đê cát chắn phía ngoài chạy dọc ven biển (Hình 1). Khu vực đầm phá có độ sâu trung bình khoảng 2-4 m nước với khu vực sâu nhất nằm ở xung quanh cửa Sông Hương. Quan sát một số hệ thống đầm phá lớn ven bờ biển ví như ở Châu Phi, Châu Mỹ, hay Châu Úc thì sự hình thành đầm phá ở đó chỉ đơn thuần do quá trình biển sinh ra đê cát chạy dọc bờ biển chắn phía bên ngoài, cô lập phần lớn các vùng nước bên trong, thiếu vắng yếu tố sông. Tuy nhiên, sự hình thành hệ đầm phá ven biển nước lợ Tam Giang - Cầu Hai lại là một hệ quả quá trình tương tác sông-biển trên nền địa hình-địa chất của khu vực diễn ra khoảng 10 nghìn năm trở lại đây.

Hình 2: Sự dâng mực nước biển kể từ cực đại băng hà cuối cùng  [1,2]

Đê cát bên ngoài được hình thành bởi quá trình mực nước biển dâng cao chủ đạo bắt đầu từ khoảng 9 nghìn năm trước (Hình 2), kết hợp với các quá trình động lực biển bao gồm sóng biển, dòng chảy dọc bờ tạo thành các bãi biển phân bố dọc ven bờ biển. Gió thổi đã đưa cát từ bãi biển lên cao và được bẫy lại bởi các thảm thực vật để xây lên những cồn cát cao đến vài chục mét. Các cồn cát phát triển dọc ven biển kết nối với nhau trở thành đê cát bao bọc phần đầm phá và vùng đồng bằng thấp nằm bên trong. Đê cát chạy dọc theo bờ biển rộng ở hai đầu tây bắc và đông nam, vát mỏng ở phần trung tâm của đầm phá. Nguồn cát cung cấp để hình thành đê cát nơi đây có thể có một lịch sử lâu dài hơn 10 nghìn năm rất nhiều.

Khu vực Đầm Cầu Hai. Ảnh: Internet

Hệ thống sông chảy vào đầm phá bao gồm năm con sông: Sông Ô Lâu, Sông Sịa, Sông Hương, Sông An Cựu, Sông Truồi. Trong đó, Sông Hương là con sông lớn nhất chảy vào phá Tam Giang. Đầm phá thông thương với biển qua hai cửa bao gồm cửa lớn Thuận An ở phá Tam Giang, cửa Tư Hiền ở đầm Cầu Hai. Các con sông ở đây chảy vào khu vực đầm phá mà không đổ ra biển trực tiếp như các con sông ở nơi khác bởi đặc điểm địa hình-địa chất và sự thuận lợi của quá trình hình thành và phát triển mạnh mẽ của đê cát chắn phía ngoài. Sự vát mỏng của đê cát ở phần trung tâm phản ánh hoạt động tương tác sông-biển mạnh mẽ ở khu vực này và quá trình thoát nước ra biển ở đây vào thời kỳ mùa lũ.

Khu vực Đầm Thủy Tú. Ảnh: Internet

Cách ngày nay 19-20 nghìn năm trước, vào thời kỳ cực đại băng hà cuối cùng, mực nước biển tọa lạc ở độ sâu đáy biển hiện tại khoảng 120-130 m (Hình 2). Sau đó mực nước biển toàn cầu dâng lên do tan băng ở hai cực của Trái đất gây ra bởi sự ấm lên của khí hậu toàn cầu. Biển đã ảnh hưởng đến khu vực đầm phá vào khoảng 8,8-8,5 nghìn năm trước thông qua sư xâm nhập của nước biển vào bên trong hệ thống đầm phá [1]. Mực nước biển dâng mạnh mẽ từ -35 m đến + 2,5 m trong khoảng 10-6.7 nghìn năm trước và duy trì cao hơn mực nước biển ngày nay khoảng + 2,5 m từ khoảng 6,7 đến 5,5 nghìn năm trước, và sau đó giảm xuống đến mực nước biển ngày nay trong suốt 5,5 nghìn năm qua [1,2]. Quá trình biển tiến chủ đạo đã xây lên hệ thống đê cát tương đối hoàn chỉnh phía ngoài. Đầm phá phát triển rộng lớn nhất vào khoảng 7,8-5,5 nghìn năm trước. Sau đó, không gian đầm phá thu hẹp lại hơn cho đến ngày nay do sự giảm xuống của mực nước biển (giảm khoảng 2,5 m) và sự bồi tụ phù sa từ các con sông nơi đây. Vào mùa lũ lụt, sự thoát nước lũ ra biển khá chậm do đê cát chắn phía ngoài và sự nông lên của các cửa lạch đổ ra biển do sự lấp đầy của các trầm tích cát gây ra bởi sóng-dòng chảy dọc bờ. Điều này gây khá nhiều phiền phức cho người dân sống ở vùng đồng bằng thấp bên trong, khi mà phần lớn đồng ruộng, nhà cửa bị ngập lụt vào thời kỳ lũ cao diễn ra khoảng vài tuần trong năm. Tuy nhiên, quá trình này cũng mang đến lợi ích nhất định là đưa phù sa bồi tụ đến các vùng đất thấp. Quá trình bồi tụ này cùng với sự giảm xuống khoảng 2,5 m của mực nước biển trong suốt 5,5 nghìn năm qua đã tạo ra vùng đồng bằng Huế có diện tích khoảng 1400 km2, không rộng lớn như đồng bằng châu thổ Sông Hồng hay Sông Mekong. Nhưng với một đồng bằng ven biển, đi kèm hệ đầm phá rộng lớn Tam Giang-Cầu Hai được che chắn bởi đê cát lớn phía ngoài, hệ thống sông địa phương phong phú chảy vào đầm phá, và sự lưu thông thuận lợi từ sông qua đầm phá ra biển thuận lợi cho giao thông đi lại-phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Những đặc điểm địa lý này đã có thể là những điểm cần thiết để Vua Gia Long chọn Huế là nơi đóng đô. Một triều đại nhà Nguyễn đã phát triển nhiều năm (1802–1884) ở vùng đất này. Cũng từ kinh đô này với vị trí địa lý tọa lạc ngay gần sát biển, thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ tầm nhìn ra biển, triều đình nhà Nguyễn đã đặt những dấu mốc chủ quyền đầu tiên với quần đảo Hoàng Sa, sau này phát triển mạnh đến Trường Sa, giúp chúng ta ngày nay khẳng định chủ quyền cả một vùng biển rộng lớn trên Biển Đông.

Tỉnh Thừa Thiên Huế có một tổ hợp cảnh quan thiên nhiên đa dạng phong phú bao gồm: núi-đồi, hệ thống sông, đồng bằng, hệ đầm phá ven biển, đê cát ven biển, và vùng biển khơi liền kề. Khi được nghiên cứu đầy đủ sâu sắc, nó sẽ mang lại nhiều kiến thức, hiểu biết thú vị giúp ích cho việc quy hoạch không gian cảnh quan địa lý-địa chất-đa dạng sinh học góp phần giữ gìn và bảo tồn cảnh quan và môi trường sinh thái phục vụ phát triển du lịch. Khu vực đầm phá có thể phát triển trở thành một công viên đầm phá quốc gia. Cảnh quan thiên nhiên độc đáo nơi đây gắn liền với các di tích lịch sử của triều đại nhà Nguyễn và những văn hóa độc đáo của xứ Huế. Khi được nghiên cứu toàn diện, quy hoạch hợp lý, và quảng bá mạnh mẽ sẽ đưa ngành du lịch của địa phương phát triển mạnh mẽ hơn, mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho tỉnh.

Phá Tam Giang. Ảnh: Internet

Ảnh chụp máy địa chấn nông phân giải cao kéo theo tàu để đo đạc địa tầng trầm tích đáy đầm phá Tam Giang-Cầu Hai. Ảnh: Internet

Hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai không chỉ là báu vật thiên nhiên, mà còn là di sản lịch sử – văn hóa của xứ Huế. Giữ gìn, nghiên cứu và phát triển bền vững nơi đây chính là cách gìn giữ bản sắc, đồng thời mở ra cơ hội kinh tế – du lịch cho tương lai.

Tài liệu tham khảo

  1. Tich V.V., Thanh N.T*., Cuc N.T.T., Vu P.N.H., Hiep H.V., Cuong H.M., Dong B.V., Nguyen N.D., Oanh N.T., Hien P.T., Tinh N.V., Nga N.T., 2024. Latest Pleistocene-Holocene sedimentary evolution from sediment records of the Tam Giang-Cau Hai coastal lagoon system, central Vietnam. Journal of Regional Studies in Marine Science 78, 103745.

(https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S2352485524003785)

  1. Thanh N.T*., Owen M.J., Mackintosh K.L.G., Bui V.D, Karl S., Cuong D.H., Andersen T. J., Tich V.V., Posth N. R., Fruergaard M., Nga N.T., Dung T.T., Hien P.T., 2023. Sequence stratigraphy and sedimentary processes since the last glacial maximum in Nha Phu Bay and adjacent shelf, central Vietnam. Journal of  Sea Research. 192, 102352.

(https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S2352485524003785)