Năm 1945, với thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đây là dấu mốc vĩ đại trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam. Nhân dân là người làm nên lịch sử, thành công của cuộc cách mạng vĩ đại này chính là kết tinh của sức mạnh, tinh thần đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam, song không thể tách rời vai trò lãnh đạo tài tình của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh
Sớm chuẩn bị mọi mặt cho cuộc cách mạng
Để có cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công nhanh chóng, Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã có sự chuẩn bị lực lượng mọi mặt từ rất sớm.
Ngày 01/9/1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Ngày 03/9/1939, Anh, Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ. Phát xít Đức lần lượt đánh chiếm các nước châu Âu. Tháng 6/1940, Đức tấn công Pháp, Chính phủ Pháp đầu hàng. Tháng 6/1941, Đức tấn công Liên Xô. Từ đây, tính chất chiến tranh thay đổi, Liên Xô trở thành trụ cột của các lực lượng chống phát xít. Ngày 22/9/1940, phát xít Nhật đánh chiếm Lạng Sơn. Ngày 23/9/1940, tại Hà Nội, thực dân Pháp ký Hiệp định đầu hàng phát xít Nhật, từ đó Nhân dân ta chịu cảnh một cổ hai tròng, mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn thực dân, phát xít Pháp - Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp các Hội nghị Trung ương lần thứ Sáu, lần thứ Bảy, và lần thứ Tám. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương Tám của Đảng (tháng 5/1941) đã quyết định thay đổi chiến lược của cách mạng Việt Nam. Tại hội nghị này, Đảng đã quyết nghị đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu do đánh giá và xác định đúng mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết cấp bách khi ấy là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân, phát xít Pháp - Nhật.
Hội nghị Trung ương 8 cũng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh, để đoàn kết, tập hợp các lực lượng cách mạng nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chính yếu là giải phóng dân tộc. Hội nghị xác định cần chuẩn bị mọi mặt và xúc tiến khởi nghĩa vũ trang, xem đây là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, xây dựng căn cứ địa cách mạng, duy trì lực lượng vũ trang, thành lập các đội du kích…
Đường lối do Hội nghị Trung ương Tám thông qua thay đổi căn bản so với mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng mà Đảng Cộng sản Đông Dương trước đó đã đề ra. Đối với sự thay đổi chiến lược quan trọng này, Giáo sư Trần Văn Giàu đã đánh giá, đó là sự chuyển hướng đường lối cách mạng Việt Nam quay về hướng giải phóng dân tộc đã bắt đầu từ khi chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ. Sự chuyển hướng này bao gồm cả chiến lược, chiến thuật và tổ chức đấu tranh. Tuy nhiên, theo Giáo sư Trần Văn Giàu, sự chuyển hướng chỉ thật sự rõ kể từ khi Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị Trung ương Tám và quyết định thành lập Mặt tận Việt Minh thì “mới thật có một bước ngoặt đầy đủ của đường lối. Từ nay tất cả các hoạt động đều nhằm vào một mục tiêu chính: giành độc lập dân tộc, rút khẩu hiệu cách mạng điền địa, và rút tất cả những gì có thể gây trở ngại cho sự tập hợp các lực lượng dân tộc. Không tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương mà lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh); không tổ chức công hội mà tổ chức công nhân cứu quốc, không tổ chức nông hội mà tổ chức nông dân cứu quốc; đó không phải chỉ là đổi tên; từ nay các cuộc đấu tranh kinh tế, xã hội đều phải kể đến lợi ích dân tộc tối cao, phải điều chỉnh chừng mực thế nào để vừa quyền lợi giai cấp của công nông được bênh vực, vừa quyền lợi của tư sản dân tộc và của thân sĩ, địa chủ yêu nước cũng không phải bị thiệt thòi cho phép họ gia nhập hàng ngũ giải phóng dân tộc của Việt Minh. Không đặt nhiệm vụ lập chính phủ công nông như trước, mà lập chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa[1]”.
Cách mạng tháng Tám thành công tại Hà Nội (Ảnh tư liệu)
Những quyết sách đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của toàn dân ấy đã thúc đẩy mạnh mẽ cao trào giải phóng dân tộc để làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại.
Cùng với chuyển hướng chiến lược về chính trị, xây dựng căn cứ địa, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang. Việc xây dựng lực lượng vũ trang là lực lượng nòng cốt để tiến hành cách mạng đã được xác định từ khi Đảng ra đời. “Chánh cương vắn tắt” của Đảng ghi rõ: “tổ chức ra đội quân công nông”. Lực lượng vũ trang lần lượt ra đời gắn với các cuộc khởi nghĩa như: Bắc Sơn (27/9/1940) với sự ra đời của Đội Du kích Bắc Sơn; Nam Kỳ (23/11/1940) với việc ra đời các tổ chức vũ trang quân du kích Nam Kỳ v.v…Vì vậy, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, ngoài việc chuyển hướng chiến lược của cách mạng đã nhận định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang[2]”.
Ngày 22/12/1944, theo sự chỉ đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ông Võ Nguyên Giáp đã thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân – một trong những đội quân tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Sau đó, ngày 15/5/1945, Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã quyết định hợp nhất Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân thành lực lượng bộ đội chủ lực với tên gọi là Việt Nam Giải phóng quân. Cùng với lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang đã có vai trò quan trọng góp phần đưa đến thành công nhanh chóng và triệt để của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Đêm ngày 13/8/1945, Lệnh Tổng khởi nghĩa được phát ra. Ngày 19/8/1945, cách mạng thành công ở Hà Nội, ngày 23/8 cuộc giành chính quyền ở Huế thành công và ngày 25/8, cách mạng thành công ở Sài Gòn.
Như vậy là toàn bộ thời gian của cuộc Cách mạng Tháng Tám diễn ra thần tốc với chỉ trong 12 ngày đêm. Việc Cách mạng Tháng Tám thành công hết sức nhanh chóng như vậy có nguyên nhân bởi sự chuẩn bị xây dựng lực lượng mọi mặt từ rất sớm của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, song có lẽ còn một nguyên nhân quan trọng nữa đó là nghệ thuật chớp thời cơ, vận dụng thời cơ của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh khi ấy.
Chớp thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền
Khi Đảng tổ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (tháng 5/1941) thì Liên Xô chưa tuyên chiến với phát xít Đức, thế nhưng Đảng ta đã dự báo: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó cách mạng nhiều nước thành công…”[3].
Cách mạng Tháng Tám tại Sài Gòn (Ảnh tư liệu)
Cũng vậy, ngay từ rất sớm, đảng ta đã dự báo và phân tích chính xác mâu thuẫn giữa các nước đế quốc, nhất là dự báo phát xít Nhật trước sau gì cũng sẽ hất cẳng và thay thế thực dân Pháp ở Đông Dương. Chính những dự báo chính xác này nên đảng ta đã hoàn toàn chủ động trong cuộc Nhật đảo chính Pháp đêm 09/3/1945. Ngay trong đêm Nhật - Pháp bắn nhau, Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng đã họp tại Bắc Ninh (chùa Đồng Kỵ, sau đó chuyển sang làng Đình Bảng) dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh và sau đó đã ra chỉ “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (ngày 12/3/1945).
Thành công nhanh chóng của cuộc cách mang tháng Tám chính là ở việc Mặt trận Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đã chớp thời cơ của tình hình trong nước và thế giới. Chớp thời cơ Liên Xô tuyên chuyến với phát xít Nhật và những thắng lợi của quân Đồng Minh ở châu Âu; Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp và quyết định Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước. Quân lệnh số 1 sau đó đã khẳng định: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam cùng giành lấy quyền độc lập của nước nhà… Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”[4].
Khi nghe bản tin của đài BBC phát về việc Nhật Hoàng chấp thuận đầu hàng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nói với ông Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ đã đến, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”[5].
Ngày 14/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) đã đưa ra nhận định là thời cơ đã đến và quyết định tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, giành chính quyền trước khi quân đồng minh vào Đông Dương. Ngày 16 và 17/8/1945, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào, tán thành chủ trương “Tổng khởi nghĩa” của Đảng. Trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, Lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta[6]”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã có sự chuẩn bị lực lượng mọi mặt từ rất sớm, đã chớp thời cơ và vận dụng thời cơ một cách kịp thời, nhuần nhuyễn. Ngoài ra, Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng đã phát huy được sức mạnh vĩ đại của toàn dân tộc, đã làm tốt công tác tập hợp lực lượng và đã thể hiện vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những nhà lãnh đạo, của lực lượng lãnh đạo cách mạng khi ấy.
[1] GS Trần Văn Giàu: Hồ Chí Minh - Chân dung một tâm hồn và trí tuệ vĩ đại, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 2014, tr. 24-25
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.129.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr.100.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.419-424.
[5] Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1969, tr. 212.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr. 596.