Điện ảnh không chỉ tái hiện lịch sử bằng ngôn ngữ hình ảnh, mà còn khơi dậy những giá trị nhân văn sâu thẳm. Trong dòng chảy ấy, Mưa đỏ nổi bật như một khúc tráng ca vừa bi hùng vừa giàu tính nhân bản, chuyển tải thông điệp về hòa bình và văn hóa khoan dung của dân tộc Việt Nam.
Cảnh trong phim mưa đỏ. Ảnh: nhandan.vn
Mưa đỏ của đạo diễn Đặng Thái Huyền, dựa trên kịch bản của nhà văn Chu Lai, là bộ phim điện ảnh do Điện ảnh Quân đội nhân dân sản xuất, ra mắt khán giả cả nước nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngay khi khởi chiếu đã nhận được sự quan tâm, phản hồi tích cực của giới chuyên môn và công chúng cả nước. Bằng nghệ thuật điện ảnh đặc sắc, bộ phim tái hiện một cách sinh động và ấn tượng thời khắc sinh tử của dân tộc - 81 ngày đêm quân và dân ta chiến đấu anh dũng bảo vệ Thành cổ Quảng Trị vào mùa hè đỏ lửa năm 1972 – một sự kiện đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc, là minh chứng cho khát vọng hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Đây là một trong không nhiều bộ phim thành công nhất của điện ảnh Việt Nam về đề tài chiến tranh cách mạng. Nối tiếp những thành công vang dội của các tác phẩm cùng đề tài như: Cánh đồng hoang, Dòng sông phẳng lặng, Biệt động Sài Gòn, Giải phóng Sài Gòn, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Chiến trường chia nửa vành trăng, Hà Nội 12 ngày đêm, Đừng đốt, Mùi cỏ cháy, Người trở về, Địa đạo, ..., bộ phim Mưa đỏ viết tiếp khúc tráng ca về tinh thần yêu nước, tình đồng đội, tinh thần anh dũng chiến đấu hi sinh của những con người đã hiến dâng cả tuổi thanh xuân, hạnh phúc riêng tư cho Tổ quốc và nhân dân... thông qua kịch bản, góc nhìn và phương thức thể hiện mới.
Cảm hứng chính của phim là cảm hứng sử thi, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tập trung diễn tả cuộc chiến tàn khốc, tinh thần quả cảm và sự hy sinh cao cả của người lính. Nhưng bên cạnh đó, bộ phim cũng tái hiện một góc nhìn khác: đi sâu vào nội tâm và cảm xúc của các nhân vật trong và sau chiến tranh cũng như ứng xử của con người trong cảnh ngộ nguy nan và giờ phút sinh tử. Điều làm nên sức cuốn hút và giá trị sâu sắc, phổ quát cho Mưa đỏ là dù nói về câu chuyện chiến tranh, trong đó có sự đối đầu giữa 2 chiến tuyến nhưng lại gửi gắm một thông điệp mạnh mẽ về hòa bình, về tinh thần khoan dung, đối thoại, hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Khát vọng hòa bình
Bộ phim có nhiều phân cảnh bi thương, ám ảnh bởi chiến tranh, mất mát. Nhưng không phải vì thế mà dìm con người đắm chìm trong bi lụy, trái lại càng thôi thúc mạnh mẽ trong tâm thức họ khát vọng cháy bỏng về hòa bình. Khát vọng hòa bình là thông điệp được tập trung làm sáng tỏ từ đầu đến cuối tác phẩm, đầy ắp trong từng chi tiết, hình ảnh, lời thoại, nhân vật. Từ cảnh những đoàn tân binh hào hùng ra trận, mang theo bao hẹn ước với hậu phương và quyết tâm quyết chiến quyết thắng để giành lại hòa bình, cảnh đoàn quân nín thở qua sông giữa làn lửa đạn, cảnh chiến đấu quên mình nơi chiến trường khói lửa, hay lời hẹn “Chờ anh”, “hòa bình cùng nhau ra Bắc”... đều ngầm ẩn một khao khát cháy bỏng về tương lai hòa bình, hạnh phúc.
Trong phim, đạo diễn đã rất cao tay khi sử dụng các thủ pháp nghệ thuật điện ảnh đặc sắc và xây dựng những chi tiết nghệ thuật mang tính biểu tượng cao.
Bằng thủ pháp trùng điệp và tương phản, phim đã khắc họa hình tượng chú chim nhỏ xuất hiện nhiều lần giữa màn mưa bom bão đạn, là điểm nhấn tinh tế và gây ấn tượng sâu sắc cho người xem. Bối cảnh phim chìm trong màu u ám, tang tóc của tường đổ, bùn nâu, sông máu, xác người,..., ngoài cảnh lán thương binh trong rừng bên kia bờ Thạch Hãn, tuyệt không có một sắc xanh của trời, của nước, của ngọn cỏ nhành cây. Giữa bầu không khí tang thương đó, ống kính trường quay lia cận cảnh dõi theo một chú chim bé nhỏ. Chim xuất hiện suốt từ đầu đến gần kết, được những chiến sĩ trẻ nhất, hồn nhiên, thơ ngây nhất như Tú, Tấn chăm nom. Chim kiên cường tồn tại, bất chấp lửa đạn, là biểu tượng bất tử của niềm lạc quan, yêu đời, yêu sự sống, của khát vọng hòa bình, tự do. Chi tiết Tấn thả chim về lại bầu trời, càng làm tăng thêm ý nghĩa cho hình tượng, gửi gắm mong ước về thế giới hòa bình, không còn chiến tranh, nơi đó sẽ có tự do và sự sống.
Cảnh hai người lính trẻ ở hai bờ chiến tuyến cùng ngã xuống, chiếc khăn bị cắt đôi rơi giữa hai thi thể bỗng liền khối, gợi hình ảnh đất nước thống nhất với hàm ngôn sâu xa. Hòa bình, thống nhất hai miền Nam - Bắc, tại giờ phút họ hy sinh, vẫn là một ước vọng chưa thành, nhưng càng vì thế càng da diết, cháy bỏng và càng thôi thúc con người đấu tranh đến cùng để đạt được. Sống cùng lịch sử chiến tranh đau thương của cha ông, thế hệ cháu con ngày hôm nay càng trân quý hơn giá trị của hòa bình. Nhà văn Chu Lai – tác giả kịch bản phim, chia sẻ: “Nếu không có Thành cổ mưa máu thì không có bầu trời xanh hôm nay, không có bản giao hưởng máu thì không có hòa bình thơ như hôm nay”.
Thủ pháp thủ vĩ với hình ảnh mở đầu và kết thúc bằng buổi diễn bản giao hưởng chính là sự ngân vang khúc ca hòa bình sâu lắng nhất, ám ảnh nhất và lạc quan nhất cho cả người còn sống và người đã hy sinh. Hòa bình là giấc mơ nối dài, không ngừng viết tiếp qua các thế hệ.
Văn hóa khoan dung
Hòa bình không tự nhiên mà có, hòa bình cũng không phải chỉ ở ước mơ, mà phải đến bằng nỗ lực biến ước mơ đó thành hiện thực. Và một trong những phương cách để có được hòa bình chính là con người nhận thức đúng về chiến tranh, cách con người ứng xử với chiến tranh cũng như ứng xử với nhau khi đứng ở ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Hòa bình chỉ thực sự có được khi những con người trong cảnh ngộ chiến tranh, đối đầu biết ứng xử bằng tinh thần khoan dung, đối thoại.
Trong tác phẩm điện ảnh được chăm chút về nội dung và nghệ thuật này, cùng với góc nhìn “sử thi” và giá trị hòa bình được hiển lộ xuyên suốt nói trên, còn có một góc nhìn đời thường “tiểu thuyết” khác, nơi đó, tinh thần khoan dung là một giá trị ngầm ẩn được thể hiện một cách lắng sâu và tinh tế qua những hành động thầm lặng, đầy tính nhân văn, sự thấu hiểu, tôn trọng và tha thứ giữa những con người dù họ đang ở hai chiến tuyến đối lập.
Sức hấp dẫn của bộ phim là mặc dù tập trung làm rõ cái bi thương, tráng chí trong bối cảnh chiến tranh vệ quốc bi hùng, nhưng nhân vật hiện lên không phải là những loa phát ngôn giáo điều, khô cứng mà sống động, đa chiều, với những góc khuất, tâm tư rất người, những cuộc đời, số phận cần được thấu hiểu, cảm thông. Họ không chỉ là những chiến binh oai hùng nơi chiến trường khói lửa, mà còn là con người đời thường, là người bạn, người con, người yêu..., Họ cũng có phút giây sợ hãi, run rẩy, bật khóc hay hóa điên... dù rất kiên cường, quả cảm.
Đặc biệt, những nhân vật người lính phía bên kia chiến tuyến cũng không hiện lên với lối khắc họa một chiều, hoàn toàn phản diện, vô cảm, trái lại, có chiều sâu, tình cảm, tâm tư,... hết sức nhân bản. Trong đó, Quang là một nhân vật đặc biệt cuốn hút người xem. Mặc dù là tên chỉ huy dày dạn, hiếu chiến, nhưng Quang không lạnh lùng, vô cảm; mặc dù mê mùi máu và thuốc súng nhưng không “chấp mê bất ngộ” bởi kịp nhận ra mình bị dẫn dắt bởi đội tướng lĩnh man rợ và “cuộc chiến hoang tưởng”. Quang ôm tình cảm đơn phương sâu sắc với Hồng, biết xót thương và sẵn sàng giúp Hồng cứu em bé mồ côi, giúp “Việt Cộng” tránh khỏi làn đạn, sẵn sàng bỏ súng “đấu tay đôi” với Cường vì thấy đối thủ của mình “đánh đẹp”. Cảnh Cường và Quang đấu tay đôi là chi tiết thú vị, không chỉ thể hiện sự kịch tính, nghẹt thở nơi chiến trường, mà còn toát lên mong muốn về sự hòa giải. Hai bên quyết đấu, nhưng không phải để một mất một còn, cuối cùng lưỡi lê của Cường đã không đâm xuống để kết liễu kẻ thù, và vì thế Quang đã giúp Cường tránh khỏi họng súng. Đối đãi bằng khoan dung, thì lương tri thức tỉnh... Sau khi Cường và Quang ngã xuống, cơn mưa xối xả ập đến như một sự gột rửa bi thương, hận thù.
Bằng thủ pháp song hành và đối lập, trong phân cảnh cuối phim, nhiều chi tiết nghệ thuật đắt giá thực sự ấn tượng người xem: Cảnh hai người mẹ (mẹ Cường và mẹ Quang) ngồi trên hai đầu của một con thuyền, cùng thả bè hoa cầu cho linh hồn con trai siêu thoát là một hình ảnh đẹp và giàu sức gợi. Những đóa hoa dẫu có khác màu nhưng cùng trôi theo dòng nước, là sự hòa chung nỗi đau. Chiến tranh đi qua, còn nỗi đau ở lại - nỗi đau của những người mẹ, dù con họ thuộc chiến tuyến nào. Chi tiết này gợi ta nhớ đến câu nói của tổng thống Mỹ Abraham Lincoln trong cuộc nội chiến Mỹ thế kỷ XIX: “Khi viên đạn xuyên qua một người lính dù thuộc bên nào đi chăng nữa thì thực ra nó đã xuyên qua trái tim của một người Mẹ”. Chính nỗi đau đã đưa hai người mẹ gần nhau trong niềm đồng cảm, bao dung. Hay khi ống kính lia vào hai mộ phần: Mộ của Cường - người lính giải phóng, bia đề danh “liệt sĩ” vinh quang, nằm cạnh đồng đội trong khuôn viên nghĩa trang. Mộ của Quang, người lính Nguỵ quân, nằm đơn độc giữa đồi hoang, nhưng trên bia vẫn đề tên tuổi, quê quán. Chi tiết ấy không chỉ khắc họa sự khác biệt trong số phận của hai người ở hai chiến tuyến, mà còn thể hiện tinh thần khoan dung, hòa giải, hoà hợp dân tộc. Bởi lẽ, cuối cùng, Quang vẫn có được một mộ phần có tên tuổi trên đất mẹ, không đến mức bị chìm vào quên lãng hay hoàn toàn ghét bỏ, hận thù.
Tất nhiên, những chi tiết đó trong phim cũng dễ gây ra những bàn luận trái chiều. Trước phản hồi của tác giả, đạo diễn Đặng Thái Huyền khẳng định: “Điều tôi thích nhất ở kịch bản gốc của nhà văn Chu Lai là tính nhân văn xuyên suốt. Trong chiến tranh, người ta thường rạch ròi thắng - thua, sống - chết, nhưng cuối cùng, kẻ địch cũng là con người. Bản chất thiện lương vẫn hiện hữu, chỉ vì hoàn cảnh mà đứng ở hai chiến tuyến. Nếu không có chiến tranh, có thể họ đã là bạn”.
Vì vậy, đến với Mưa đỏ, con người học được cách hành xử khoan dung, tha thứ cho những lầm lỗi và nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh. Người xem thấm thía một thông điệp rằng: để tiến về phía trước, cần phải bỏ lại sau lưng sự chia rẽ và hận thù, bước qua quá khứ, hướng tới tương lai vì một thế giới nơi mọi người có thể chung sống khoan dung, hòa hợp.
Mưa đỏ không chỉ là hiện thực máu lửa mà còn là sự gột rửa đau thương, hận thù để hướng tới tương lai đầy lạc quan “sau cơn mưa trời lại sáng” để chữa lành vết thương và sống tiếp. Từ câu chuyện về những con người cụ thể, phim mang tính biểu tượng cho văn hóa của dân tộc Việt Nam – một dân tộc đau thương mà anh hùng, mất mát mà nhân văn, cao thượng, một dân tộc đã phải trả giá rất lớn cho hòa bình, nhưng vì thế với chúng ta, hòa bình càng đáng quý, đáng trân trọng, càng vô giá. Và cũng vì trân quý hòa bình, dân tộc ta luôn coi trọng tinh thần khoan dung, đối thoại để giảm thiểu tối đa đối đầu, chiến tranh. Có lẽ vì thế, phim như một cơn mưa mà từng giọt nước thấm vào trong tâm thức mỗi người, chạm đến cảm xúc sâu lắng và khiến người xem day dứt, suy ngẫm không thôi ngay cả khi rời rạp.