Vận dụng sáng tạo lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới
Nghiên cứu sâu sắc lịch sử nhân loại, những người sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, theo đó chủ nghĩa cộng sản (mà giai đoạn thấp là CNXH) tất yếu sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản. Các ông chỉ ra rằng CNXH ra đời trên cơ sở những tiền đề hiện thực do nhân loại sáng tạo, nhằm khắc phục những hạn chế của xã hội tư bản chủ nghĩa về kinh tế (chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất) và chính trị (quyền lực chỉ thuộc về thiểu số). Ban đầu dự báo cách mạng vô sản nổ ra đồng thời ở các quốc gia tư bản phát triển, nhưng V.I.Lênin sau này đã điều chỉnh, cho rằng cách mạng có thể nổ ra ở "khâu yếu nhất" của sợi dây chuyền tư bản chủ nghĩa, điều đã được chứng minh bằng Cách mạng Tháng Mười Nga.
Lý luận Mác – Lênin đã cung cấp cơ sở khoa học vững chắc cho niềm tin về sự tiến hóa tất yếu của nhân loại lên CNXH, đồng thời đưa ra những chỉ dẫn cơ bản về đặc trưng và con đường xây dựng CNXH. Tuy nhiên, như C.Mác và Ph.Ăngghen đã cảnh báo, lý luận là lý luận của sự phát triển chứ không phải giáo điều. V.I.Lênin cũng nhấn mạnh rằng lý luận của Mác cần được phát triển không ngừng để không lạc hậu với cuộc sống. Thấm nhuần tinh thần đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác…ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội".
Chính sự nhận thức sâu sắc này đã mở đường cho công cuộc Đổi mới toàn diện do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ Đại hội VI (năm 1986). Đại hội đã tổng kết và rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, đặc biệt là bài học tôn trọng quy luật khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, giáo điều. Đây là nền tảng để Đảng từng bước hình thành và hiện thực hóa một hệ lý luận về đường lối Đổi mới, phù hợp với đặc điểm của Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.
Những đột phá trong nhận thức và hiện thực hóa con đường đi lên CNXH
Trước hết, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Trong bối cảnh CNXH hiện thực gặp nhiều khó khăn sau sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, việc lựa chọn mục tiêu và con đường đi lên CNXH trở thành vấn đề có tính thời sự và thử thách bản lĩnh. Đảng ta vẫn kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin và mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền CNXH. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) một lần nữa khẳng định: "Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội". Sự kiên định này không phải là giáo điều mà dựa trên sự phân tích khoa học về bản chất của thời đại, về khát vọng độc lập, tự do và ấm no của nhân dân Việt Nam. Nó thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng và tầm nhìn chiến lược của Đảng trong việc xác định hướng đi cho dân tộc.
Phối cảnh phố đi bộ Nguyễn Huệ (Q.1, TP.HCM), một trong những công trình trọng điểm chào mừng 40 năm thống nhất đất nước - Ảnh: Tư liệu
Nhận thức sâu sắc về thời kỳ quá độ lên CHXN - một trong những vấn đề phức tạp nhất của cách mạng XHCN. Trước Đổi mới, nhận thức về thời kỳ này còn có phần chủ quan, nóng vội. Qua thực tiễn, Đảng ta đã có những bước tiến lớn, đột phá. Xác định thời kỳ quá độ là lâu dài, phản ánh đúng tính chất phức tạp và khó khăn của quá trình xây dựng CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lại trải qua nhiều năm chiến tranh. "Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" nhưng không bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; bỏ qua việc xác lập sự thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng vẫn kế thừa và phát triển những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra trong phát triển lực lượng sản xuất, quản lý kinh tế, khoa học công nghệ tiên tiến. Đây là một bước tiến quan trọng, tránh được tư duy giáo điều và mở ra không gian rộng lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức về thời kỳ quá độ được cụ thể hóa theo từng giai đoạn, kế hoạch 5 năm, chiến lược 10 năm, đảm bảo tính linh hoạt và phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - một trong những sáng tạo lý luận và thực tiễn đặc sắc nhất của Việt Nam. Trong khi lý luận Mác – Lênin chưa đề cập cụ thể về kinh tế thị trường trong CNXH, và mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã bộc lộ những hạn chế, Đảng ta đã dũng cảm đổi mới tư duy, hình thành mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mô hình này đã phát huy hiệu quả to lớn. Phát huy hiệu năng của kinh tế thị trường, làm năng động hóa các chủ thể xã hội, giải phóng và khai thông các nguồn lực, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Hạn chế thất bại của thị trường và phù hợp mục tiêu XHCN; đảm bảo sự phát triển thực sự vì con người, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, không chấp nhận gia tăng khoảng cách giàu nghèo bất bình đẳng. Mô hình này hướng tới một xã hội nhân ái, đoàn kết, phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên và một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. Đa dạng hóa quan hệ sản xuất: Thay vì tư duy xác lập ngay quan hệ sản xuất XHCN thuần khiết, Đảng đã chủ trương xác lập đa dạng các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai trò nền tảng, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng. Nhờ đó, sức mạnh tổng hợp của xã hội được khơi thông tối đa.
Đổi mới hệ thống chính trị và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCM. Việc xác định xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một đột phá lý luận. Nhà nước này không chỉ là công cụ quyền lực của giai cấp công nhân và nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà còn được tổ chức và vận hành theo nguyên tắc pháp quyền, đảm bảo dân chủ xã hội, quyền con người, quyền công dân. Khẳng định mục tiêu xây dựng nền dân chủ XHCN Việt Nam, một nền dân chủ thực sự, dân chủ cho số đông, là một trong ba trụ cột quan trọng, làm sâu sắc thêm bản chất của CNXH. Nhận thức sâu sắc rằng đại đoàn kết là chiến lược lâu dài, toàn diện và rộng rãi, là sức mạnh to lớn, không chỉ là sách lược nhất thời. Nền tảng của khối đại đoàn kết là liên minh công nhân – nông dân – trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng đặc biệt quan tâm công tác xây dựng Đảng không chỉ về tư tưởng, chính trị, tổ chức mà còn về đạo đức. Đây là một bổ sung cấp thiết trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế dễ phát sinh tha hóa, biến chất. Việc tăng cường kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm các vi phạm đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng.
Phát triển văn hóa và con người XHCN từ quan niệm CNXH là một sự nghiệp văn hóa vĩ đại. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là sự phát triển mới dựa trên Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943). Văn hóa là mục tiêu, động lực, nền tảng tinh thần của xã hội, các giá trị văn hóa được phát huy phục vụ mục tiêu phát triển. Tư duy văn hóa đã chuyển thành chủ trương xây dựng và đẩy mạnh công nghiệp văn hóa, làm cho văn hóa không còn là "cái đuôi của kinh tế" mà trở thành động lực quan trọng cho phát triển kinh tế. Đảng ngày càng nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng văn hóa gắn với con người, khơi dậy khát vọng phát triển, biến con người thành chủ thể của mọi sáng tạo.
Quan điểm nhất quán của Đảng là không chạy theo sự phát triển kinh tế đơn thuần mà hy sinh các mục tiêu xã hội. Việt Nam thực hiện tiến bộ xã hội ngay trong từng chính sách và từng bước phát triển. Từ chỗ hơn 60% dân số nghèo đói (năm 1990), Việt Nam đã giảm xuống dưới 3% theo chuẩn nghèo mới, hoàn thành trước thời hạn các Mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. "Không để ai bị bỏ lại phía sau", khuyến khích người có năng lực làm giàu chính đáng, đồng thời quan tâm hỗ trợ người khó khăn, yếu thế, thể hiện bản chất nhân văn của CNXH.
Xây dựng CNXH gắn liền với bảo vệ Tổ quốc XHCN; quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Nhờ đó, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, tạo môi trường hòa bình cho phát triển. Từ chỗ lo ngại về toàn cầu hóa đến chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, không liên minh quân sự, "không chọn phe" đã được kết tinh trong triết lý ngoại giao "cây tre Việt Nam". Việt Nam đã trở thành thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, giải quyết bất đồng bằng biện pháp hòa bình.
Nhận thức sâu sắc về hậu quả môi trường và sự cần thiết phải chung tay giải quyết, cam kết đưa phát thải ròng về "0" vào năm 2050, thể hiện trách nhiệm của Việt Nam với các vấn đề toàn cầu.
Sau gần 40 năm Đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc nhận thức ngày càng sáng tỏ và hiện thực hóa con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Những thành quả này không chỉ khẳng định tính đúng đắn của con đường đã chọn mà còn bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trong bối cảnh mới, góp phần vào lý luận chung về CNXH trên thế giới. Đây là minh chứng rõ ràng cho sức sống và sự phù hợp của CNXH với khát vọng phát triển của dân tộc Việt Nam./.