
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, V.I. Lênin đã trực tiếp soạn thảo bản Đề cương về cách mạng văn hóa, bởi Người cho rằng, không thể xây dựng xã hội cộng sản trong một nước thất học và ở nước Nga, cách mạng chính trị và xã hội đã đi trước một bước, cuộc đảo lộn văn hóa, cuộc cách mạng văn hóa mà giờ đây nhất thiết phải làm.
Bởi thế, ngay sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Hội đồng Dân ủy đã ra một sắc lệnh quan trọng do V.L Lênin ký Về việc tách nhà thờ khỏi nhà nước, tách trường học khỏi nhà thờ. Đồng thời, ở Chương V, Hiến pháp năm 1918 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết Liên bang Nga đã hiến định: “Nhà nước Xôviết bảo đảm cho tất cả người dân được hưởng nền giáo dục phổ thông đầy đủ và miễn phí; bảo đảm quyền ngôn luận, báo chí và tự do tôn giáo”.
Để nhanh chóng xóa bỏ nạn mù chữ, ngày 26/12/1919, Hội đồng Dân ủy đã ra một chỉ thị về việc thanh toán nạn mù chữ trong nhân dân Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết Liên bang Nga. Bản chỉ thị quy định: “Tất cả cư dân trong nước cộng hòa, tuổi từ 18 đến 50, những ai chưa biết đọc, biết viết, từ nay phải theo học chữ dân tộc mình hoặc chữ Nga”. Từ đó, một ủy ban chuyên trách về thanh toán nạn mù chữ đã được thành lập, trực thuộc Bộ Dân ủy Giáo dục.
Mùa thu năm 1923, Hội đả đảo nạn mù chữ - một tổ chức xã hội tự nguyện ra đời nhằm thanh toán nạn mù chữ trong nhân dân. Hàng trăm nghìn người đã theo học. Những lớp học của hội không chỉ dạy chữ cho nhân dân mà còn là nơi giáo dục, lôi cuốn quần chúng nhân dân tham gia vào đời sống chính trị của đất nước.
Cùng với đó, Đảng, Nhà nước Xôviết dành sự quan tâm ưu tiên phát triển giáo dục phổ thông. Hệ thống trường học phổ thông được phát triển nhanh chóng với hàng chục nghìn trường phổ thông liên cấp - sơ cấp được thành lập cho trẻ em từ 8 đến 13 tuổi và trung cấp cho trẻ em từ 14 đến 17 tuổi. Nhờ đó, chỉ trong ba năm đầu của chính quyền Xô viết, mặc dù nội chiến diễn ra ác liệt, nhưng 13.000 trường học phổ thông mới được khai trương. Năm 1920, số giáo viên phổ thông đã có tới 400.000 (năm 1914, ở Nga chỉ có 73.000 giáo viên), số học sinh lên tới 1,7 triệu (1). Nhà trường Xôviết không chỉ dạy cho các em những kiến thức văn hóa, mà còn bồi dưỡng cho các em tình yêu lao động, tình yêu Tổ quốc, ý thức tập thể, tình hữu ái giữa các dân tộc và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Tới năm 1926, 76,3% số dân thành thị đã biết đọc, biết viết, ở nông thôn là 45,2% (2).
Đặc biệt, nhà nước Liên Xô đã đặc biệt chú ý xây dựng đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa, đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề và cán bộ kỹ thuật, phát triển văn học và nghệ thuật Xôviết. Bởi thế, các trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, các trường đại học và viện nghiên cứu đã được mở ra tại các nước cộng hòa Xôviết. Giới trí thức xã hội chủ nghĩa bằng lao động sáng tạo của mình đã đóng góp to lớn cho công cuộc khôi phục kinh tế, bảo vệ chính quyền Xôviết, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Khẳng định, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã cứu vãn nền văn hóa, giáo dục Nga đang suy sụp dưới chế độ Nga hoàng và mở đầu một giai đoạn phát triển rực rỡ của nền văn hóa các dân tộc Xôviết dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin và sức sống của chủ nghĩa xã hội.
Những nguyên lý, chính sách về giáo dục từ Liên Xô đã được Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp thu, vận dụng sáng tạo để xây dựng nền giáo dục cách mạng, phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng và xây dựng đất nước.
Kinh nghiệm cho Việt Nam
Năm 1930, trong Lời kêu gọi nhân ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nêu ra khẩu hiệu “thực hành giáo dục toàn dân”, tiến hành phổ cập giáo dục, “ai cũng được học hành”(4).
Cách mạng Tháng Tám thành công, ngay buổi họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (03/9/1945), Hồ Chí Minh nêu vấn đề giáo dục, chống giặc dốt là nhiệm vụ cấp bách của chính quyền mới. Ngày 08/9/1945, Người ký ba sắc lệnh quan trọng về giáo dục đó là sắc lệnh về việc thành lập Nha Bình dân học vụ; sắc lệnh quy định mọi làng phải có lớp học bình dân và sắc lệnh cưỡng bức học chữ quốc ngữ không mất tiền, bởi Người cho rằng “Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hóa” (5) và bởi “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” (6).
Thực tiễn 80 năm qua, Việt Nam luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Giáo dục toàn diện để phát triển con người Việt Nam về đức, trí, thể, mỹ luôn là tư tưởng xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân” (7).
Nghị quyết số 71-NQ/TW, ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo được đánh giá là văn kiện mang tính đột phá mạnh mẽ, giáo dục được nhìn nhận không chỉ là “quốc sách hàng đầu”, mà còn là yếu tố “quyết định đến tương lai dân tộc”, điều đó thể hiện tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo được coi là trọng tâm của Chiến lược phát triển quốc gia trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập sâu rộng. Đặc biệt, “Phát triển giáo dục trên nền tảng văn hóa, giá trị truyền thống dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa nhân loại, chuẩn mực quốc tế; giáo dục, đào tạo công dân Việt Nam trở thành công dân toàn cầu” (8), nhằm đào tạo công dân Việt Nam có cốt cách dân tộc, đủ năng lực và tư duy hội nhập để trở thành công dân toàn cầu, vừa phát triển đất nước, vừa đóng góp cho cộng đồng quốc tế.
Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ, góp phần thúc đẩy giáo dục phát triển, điển hình là: Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014; Luật Giáo dục đại học năm 2018, Luật Giáo dục năm 2019...; đồng thời, ban hành các cơ chế, chính sách về đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, về cơ hội tiếp cận giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách, bảo đảm bình đẳng giới trong giáo dục và đào tạo.
Như Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh tại Lễ Khai giảng năm học mới 2025 – 2026, ngày 5/9/2025 tại Hà Nội: “học tập không chỉ là nhu cầu cá nhân, mà trước hết phải được nhìn nhận như một trách nhiệm chính trị, một hành động cách mạng thường trực của mỗi người dân... góp phần xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng” (9). Bởi vậy, chủ động, tự giác học tập suốt đời để nâng cao kiến thức, kỹ năng, hoàn thiện bản thân trong bối cảnh thế giới thay đổi nhanh chóng, qua đó, phát huy cao nhất mọi năng lực, phẩm chất con người Việt Nam, đủ sức cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới.
* Tài liệu trích dẫn
(1) Nguyễn Huy Quý, Lê Khắc Thành: Lịch sử Liên Xô, Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, H.1987, tr.95.
(2) PGS.TS.NGND. Nguyễn Bá Dương (chủ biên): Tầm vóc, giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của cách mạng Tháng Mười Nga, Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2018, tr.38.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 22.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 187
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 10, tr. 345.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 7.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2013, tr. 119
(8) Bộ Chính trị, Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
