50 năm qua, quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam là một chặng đường lịch sử rực rỡ, rất vẻ vang của nhân dân Việt Nam và nhân dân các dân tộc Lào. Mối quan hệ đặc biệt của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Kaysone Phomvihane đặt nền móng, gây dựng, ngày càng được lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước dày công vun đắp và liên tục phát triển

Việt Nam và Lào là hai quốc gia có nhiều nét tương đồng về lịch sử, văn hóa, cùng tựa lưng vào dãy Trường Sơn và uống chung dòng nước sông Mê Kông. Quá trình sinh sống và cùng chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập dân tộc càng làm cho hai dân tộc sát cánh và gắn bó keo sơn hơn nữa, tạo nên mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào.

Ngày 12/10/1945, Chính phủ Lào Itxala được thành lập và ngày 2/12/1975, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời, là sự kiện vĩ đại, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc Lào.

Hồ Chí Minh với quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào

Sau khi tìm ra con đường cứu nước cho nhân dân Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông Dương và cách mạng giải phóng thuộc địa.

Người xác lập cho Đông Dương con đường giải phóng khỏi ách thống trị thuộc địa và xây dựng đất nước theo xu thế của thời đại mới, đó là cách mạng Đông Dương là cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; sự nghiệp cách mạng của ba nước Đông Dương do nhân dân ba nước Đông Dương tiến hành.

Tinh thần ấy được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5/1941), dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc nêu rõ: Các dân tộc Đông Dương đều phải chịu chung một ách thống trị của phát xít Pháp - Nhật, cho nên phải đoàn kết lại để đánh đuổi kẻ thù chung; song, Đảng phải hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi giành được độc lập, các dân tộc sẽ tùy theo ý muốn mà tổ chức thành Liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành một quốc gia dân tộc “sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”[1].

Trong mỗi chặng đường phát triển của cách mạng hai nước Việt Nam - Lào, lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn luôn chăm lo xây dựng, vun đắp quan hệ đoàn kết đặc biệt giữa hai dân tộc.

Tháng Tám, năm 1945, khi thời cơ giành độc lập cho Việt Nam và Lào xuất hiện, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định Tổng khởi nghĩa và tiến hành Hội nghị toàn quốc tại Tân Trào - Tuyên Quang (từ 13 đến 15/8/1945).

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ, gian khổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và quân dân Việt Nam thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào với phương châm giúp bạn là mình tự giúp mình.

Một đơn vị quân tình nguyện Việt Nam tham gia chiến đấu trên chiến trường Lào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (Ảnh tư liệu)

Tinh thần ấy được thể hiện trong Hội nghị cán bộ về công tác giúp đỡ Lào và Campuchia (ngày 15/02/1949), quán triệt bốn phương châm của công tác quốc tế với nước bạn là: Không đứng trên lợi ích Việt Nam mà làm công tác Lào - Miên; nắm chắc nguyên tắc dân tộc tự quyết, do Lào, Miên tự quyết định lấy; không đem chủ trương, chính sách, nguyên tắc của Việt Nam ứng dụng vào Lào, Miên như lắp máy; cần giúp đỡ Lào, Miên để bạn tự làm lấy.

Quan điểm này được khẳng định trong Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương: “Chúng ta kháng chiến, dân tộc Miên, Lào cũng kháng chiến. Bọn thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là kẻ thù của ta và của dân tộc Miên, Lào. Vì vậy, ta phải ra sức giúp đỡ anh em Miên, Lào. Và tiến đến thành lập Mặt trận thống nhất các dân tộc Việt - Miên - Lào”[2].

Nhằm giúp cách mạng Lào phát triển nhanh chóng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc giúp đỡ xây dựng, củng cố mặt trận dân tộc thống nhất, phát huy những nhân tố chủ quan của cách mạng Lào.

Ngày 11/3/1951, tại Hội nghị liên minh nhân dân ba nước Đông Dương, Mặt trận đoàn kết liên minh Việt-Miên-Lào được thành lập dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và Hội nghị cũng bầu ra Ban chỉ đạo chung để điều hành sự phối hợp liờn minh chiến đấu giữa ba dân tộc khi chiến tranh bước sang giai đoạn mới. Theo đó, các đoàn thể quần chúng cũng lần lượt ra đời như Hội Lào cụ xạt, Hội yêu nước Cômmađam, Hội người Hmông cụ xạt,…

Bên cạnh việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất và củng cố lực lượng, Người luôn trăn trở xúc tiến thành lập một chính đảng riêng ở Lào. Trong các cuộc gặp gỡ đồng chí Kaysone Phomvihane, Người khuyên nên lấy tên Đảng là Đảng Nhân dân cách mạng Lào để tập hợp mọi người yêu nước vào cuộc đấu tranh cứu nước.

Với tinh thần đó và thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951) và Nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (tháng 3/1951), Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam cử đồng chí Nguyễn Khang (Uỷ viên Trung ương Đảng) cùng một số cán bộ chủ chốt của Ban cán sự Lào (Ban công tác miền Tây) sang giúp những người cộng sản Lào chuẩn bị thành lập Đảng. Đến tháng 8/1953, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết về nguyên tắc làm việc giữa cán bộ Việt Nam với cán bộ Lào và việc thành lập chính đảng ở Lào.

Mùa xuân năm 1955, Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào thành công tốt đẹp, tạo điều kiện quan trọng cho thắng lợi của cách mạng Lào, thúc đẩy sự phát triển hơn nữa trong quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc Việt Nam- Lào.

Trải qua hai cuộc kháng chiến, nhất là trong những năm tháng chống Mỹ ác liệt, quan hệ Việt - Lào phát triển đến đỉnh cao mới của hình thức liên minh chiến lược - hai nước chung sức chống đế quốc Mỹ.

Mở đầu cho sự hợp tác, giúp đỡ là sự kiện quan trọng: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Vương quốc Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau (05/9/1962).

Sáu tháng sau ngày thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước, ngày 10/3/1963, trong buổi chiêu đãi trọng thể Quốc vương Lào nhân dịp sang thăm Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ tình cảm sâu sắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đối với Vương quốc Lào: “Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau như anh em.

Trải qua nhiều năm đấu tranh gian khổ và anh dũng, nhân dân hai nước chúng ta đã giành được độc lập, đã làm chủ đất nước của mình. Ngày nay chúng ta lại đang giúp đỡ nhau để xây dựng cuộc sống mới. Tình nghĩa láng giềng của anh em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được”[3].

Phát huy tinh thần đoàn kết đó, quân dân Việt Nam và Lào đẩy mạnh liên minh, phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Thắng lợi của Việt Nam là niềm cổ vũ to lớn nhân dân lào nổi dậy, giành chính quyền trong cả nước, thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào vào ngày 2/12/1975.

Cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do của hai dân tộc Lào, Việt Nam trải qua những chặng đường lịch sử lâu dài và gian khổ đã tôi luyện ý chí đấu tranh và sức mạnh đoàn kết trên cơ sở của chủ nghĩa quốc tế vô sản cao cả, đồng thời ngày càng khắc sâu tình cảm đặc biệt như anh em ruột thịt giữa Đảng, Nhà nước, quân và dân hai nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1976) ghi nhận và đánh giá cao mối quan hệ giữa ba nước Đông Dương, nhất là quan hệ Việt Nam - Lào: “ Thắng lợi của chúng ta cũng là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu không gì lay chuyển nổi của nhân dân ba nước Việt Nam-Lào và Campuchia, của mối quan hệ đặc biệt đã có từ lâu trong lịch sử và được thử thách trong ngọn lửa cách mạng chống kẻ thù chung của ba dân tộc.”[4]

Phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới hiện nay

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào, trong công cuộc đổi mới của mỗi nước, Việt Nam và Lào đều giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Quan hệ hợp tác, hữu nghị, đặc biệt gắn bó giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân nước được đẩy mạnh và không ngừng mở rộng trên nhiều lĩnh vực.

Hợp tác kinh tế thương mại và đầu tư được quan tâm, thúc đẩy và thu được những kết quả rất đáng ghi nhận: Lũy kế đến năm 2025, doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư vào Lào đạt 267 dự án, với tổng vốn đăng ký là 5,7 tỷ USD; vốn thực hiện đạt khoảng 2,8 tỷ USD. Đáng chú ý là đầu tư của Việt Nam sang Lào đang có xu hướng tăng trở lại theo hướng bền vững hơn. Năm 2024, vốn đăng ký đầu tư sang Lào là 191,1 triệu USD, tăng 62,1% so với năm 2023; các doanh nghiệp đã đóng góp thuế và nghĩa vụ tài chính khác trong 5 năm trở lại đây khoảng 200 triệu USD/năm, luỹ kế từ năm 2015 đến năm 2025 khoảng 1,8 tỷ USD; đóng góp gần 160 triệu USD cho công tác an sinh xã hội. Kim ngạch thương mại song phương năm 2024 ước đạt 2,2 tỷ USD tăng 33,9% so với năm 2023, trong đó đáng ghi nhận là Lào đã xuất siêu sang Việt Nam khoảng 732,7 triệu USD[5].

Công trình tòa nhà Quốc hội mới của Lào, quà tặng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam dành cho Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào, xứng đáng là biểu tượng cho mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào.

Quan hệ hợp tác chính trị, đối ngoại tiếp tục bền vững, ổn định, toàn diện, xây dựng lòng tin lẫn nhau ở mức cao, thường xuyên có sự trao đổi giữa lãnh đạo cấp cao và các cấp một cách thường xuyên, là nền tảng vững chắc cho mối quan hệ đặc biệt, vĩ đại giữa hai nước.

Hai nước cũng luôn hỗ trợ trong khuôn khổ Cộng đồng ASEAN, các khuôn khổ đa phương trong khu vực và quốc tế. Về đầu tư, năm 2024, Chính phủ Lào cấp phép cho 12 dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam; hai bên tiếp tục nỗ lực với tư cách là chủ sở hữu chung, tìm kiếm cơ chế, giải pháp giúp đỡ lẫn nhau trong việc thúc đẩy đầu tư chung giữa hai nước thuận lợi, linh hoạt hơn.

Nổi bật nhất là việc đầu tư vào lĩnh vực năng lượng gió, như: Điện gió Heong Son, dự án điện gió Savan 1…Kết nối hạ tầng được hai bên cùng thúc đẩy phát triển các cơ sở hạ tầng đa dạng nhằm tạo thuận lợi cho việc di chuyển, vận chuyển hàng hóa giữa hai nước cũng như giữa các nước trong khu vực như: Điển hình như dự án bến cảng số 1, 2 và 3 thuộc Cảng Vũng Áng; Dự án đường sắt Lào - Việt Nam; Dự án đường cao tốc Viêng Chăn - Hà Nội...

Về hợp tác kinh tế, hai bên đã nỗ lực tổ chức và thực hiện các thỏa thuận giữa hai Bộ chính trị, từng bước được cải thiện. Về thương mại, giá trị thương mại Lào - Việt Nam ước tính đạt mục tiêu kỳ họp lần thứ 46 đề ra. Năm 2024 vượt ngưỡng 2 tỷ USD, tăng mạnh so với năm 2023.

Hợp tác văn hóa - xã hội ngày càng đi vào chiều sâu. Hai bên tái khẳng định trong thập kỷ mới sắp tới, hai bên sẽ tập trung nâng cao chất lượng tuyển chọn sinh viên Lào sang học tập tại Việt Nam. Năm 2025, Chính phủ Việt Nam tiếp tục cấp 1.160 học bổng cho học sinh, sinh viên Lào sang học tập tại Việt Nam.

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam được các lãnh tụ vĩ đại là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Kaysone Phomvihane và Chủ tịch Souphanouvong trực tiếp đặt nền móng; được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công xây dựng, gìn giữ, vun đắp bằng mồ hôi, công sức, trí tuệ và cả bằng xương máu. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn tự hào có một người bạn thủy chung, son sắt và cùng chung chí hướng. Việt Nam ủng hộ mạnh mẽ, toàn diện sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển của đất nước Lào và luôn không ngừng củng cố, phát triển quan hệ hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa Đảng và nhân dân hai nước.

 

[1]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr 113.

[2]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr 36.

[3] Diễn văn chào mừng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi đón tiếp vua Lào đến thăm nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 10/3/1963. Báo Nhân Dân, ngày 11/3/1963.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội , 2004, t.37, tr 475.