Hợp tác công-tư (PPP) là hình thức hợp tác giữa nhà nước và khu vực tư nhân trong việc đầu tư, xây dựng, vận hành và quản lý các công trình hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công. Theo đó, nhà nước và tư nhân sẽ cùng chia sẻ trách nhiệm, rủi ro, lợi nhuận trong một dự án cụ thể mà hai bên đã ký kết hợp đồng.
Luật PPP - mở đường cho tư nhân
Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để thực hiện được mục tiêu đó, Nhà nước phải dành nguồn lực đầu tư rất lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội, điều này cũng đồng nghĩa với việc ngân sách Nhà nước đối mặt với nhiều áp lực, PGS. TS Phạm Thế Anh, Đại học Kinh tế Quốc dân chỉ ra rằng, chi thường xuyên luôn chiếm khoảng 65% tổng thu ngân sách nhà nước (từ 2015 đến nay, trừ năm 2022), nếu cộng cả chi trả nợ, con số này lên tới 85–90%.
Để giảm bớt gánh nặng lên ngân sách Nhà nước, hình thức hợp tác công-tư giữa Nhà nước và tư nhân ngày càng được khuyến khích mở rộng, nhằm huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân trong việc phát triển hạ tầng giao thông, y tế, giáo dục, năng lượng, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số....
Theo ông Trần Quốc Phương, Thứ trưởng Bộ Tài chính, hiện nhu cầu đầu tư hạ tầng tại Việt Nam đều vượt xa khả năng cân đối của ngân sách, đặc biệt là các lĩnh vực giao thông, logistics, phát triển đô thị, hạ tầng số hay dịch vụ xã hội đang thay đổi từng ngày theo nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế. Vì vậy, việc huy động nguồn lực xã hội là xu hướng tất yếu, khi có sự tham gia của khu vực tư nhân và các định chế tài chính quốc tế sẽ giúp mở rộng quy mô đầu tư, rút ngắn thời gian hoàn thành những dự án lớn và tăng chất lượng vận hành. Hợp tác công-tư (PPP) không chỉ mang lại nguồn vốn bổ sung, mà còn thúc đẩy cách thức quản trị dự án hiện đại, ứng dụng công nghệ tiên tiến và tiêu chuẩn vận hành tốt hơn.
Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công - tư (Luật PPP) được Quốc hội thông qua năm 2020, đã tạo nền tảng pháp lý cũng như mở ra nhiều cơ hội cho quá trình hợp tác giữa Nhà nước và khu vực tư nhân nhất là trong lĩnh vực đầu tư công hiện nay.
GS. TS Hoàng Văn Cường, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng, Ủy viên Ủy ban Kinh tế Tài chính của Quốc hội nhận định, Chính phủ đã có những đổi mới khi triển khai thực hiện đầu tư công, nếu như trước đây phần lớn là Chính phủ lập dự án và các cơ quan, bộ, ngành Nhà nước quản lý đầu tư thì hiện nay việc này đang được thực hiện theo tinh thần của Nghị quyết 68 đó là khuyến khích và huy động nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân vào cùng với Nhà nước để làm.
“Thời gian tới cần đẩy mạnh việc để tư nhân tham gia làm các dự án trọng điểm quốc gia cùng với Nhà nước. Chúng ta hãy nhìn vào dự án Trung tâm Hội chợ Triển lãm Quốc gia mới được khánh thành vào tháng 8 năm nay – nếu công trình này là đầu tư công hoàn toàn thì không thể làm trong thời gian nhanh như thế được, nhưng khi có sự hợp tác của tư nhân thì hoàn thành rất nhanh. Công trình này khi tổ chức các sự kiện quan trọng đã có hàng triệu người đến tham quan, nếu chúng ta tạo ra được hệ thống dịch vụ-kinh doanh thì sức lan tỏa rất lớn”, GS Cường nhấn mạnh.
Lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ
Dù mở ra nhiều cơ hội cho tư nhân cùng Nhà nước hợp tác, nhưng Luật PPP 2020 sau một thời gian đi vào thực tiễn đã bộc lộ nhiều bất cập cần sửa đổi. Mới đây, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 08 Luật trong đó có Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công-tư. Điều này đã tạo ra môi trường thuận lợi hơn để mở đường cho tư nhân tham gia phát triển hạ tầng quốc gia.
Nếu như Luật PPP 2020 quy định quy mô dự án PPP tối thiểu phải từ 200 tỷ đồng trở lên, việc này khiến nhiều ý tưởng PPP quy mô nhỏ và vừa không thể triển khai – đến hiện tại, Luật PPP mới đã loại bỏ quy định này, nhằm trao quyền chủ động cho các bộ, ngành, đặc biệt là địa phương khi đánh giá tính khả thi và lựa chọn dự án.
Đáng chú ý, bước tiến của Luật PPP mới đó là sửa đổi cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu. Cụ thể, trong trường hợp giảm doanh thu, Chính phủ cam kết chia sẻ tối đa 50% phần hụt thu của nhà đầu tư khi doanh thu thực tế nằm trong biên độ từ dưới 90% đến dưới 75% so với phương án tài chính. Ngược lại, nhà đầu tư chia sẻ 50% phần vượt thu, khi doanh thu thực tế nằm trong biên độ từ trên 110% đến 125% so với phương án tài chính (Luật PPP 2020 quy định cơ chế chia sẻ với tỷ lệ cố định 50%-50% cho hai bên và trên cơ sở kiểm soát định kỳ doanh thu hàng năm.
Việc chia sẻ phần giảm doanh thu khi doanh thu thực tế chỉ đạt 75% doanh thu trong phương án tài chính chỉ được áp dụng khi đã thực hiện đầy đủ các biện pháp điều chỉnh mức giá, phí sản phẩm, dịch vụ công hoặc thời hạn hợp đồng và phải được kiểm toán nhà nước kiểm toán phần giảm doanh thu), thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Quốc Phương cho biết “quy định về chia sẻ rủi ro doanh thu, vốn của Luật PPP 2020 đã từng gây nhiều tranh luận, nay sửa đổi trong Luật PPP mới nhằm tăng tính ổn định, giảm rủi ro tài chính bằng cách giới hạn trách nhiệm chia sẻ cho cả hai bên, để nhà đầu tư yên tâm, tránh tâm lý lo ngại ôm rủi ro quá lớn”.
Nhiều chuyên gia cho rằng, từ khi Luật PPP 2020 ra đời, không có nhiều các dự án công-tư được triển khai do vướng rào cản, mâu thuẫn giữa các luật như đầu tư công, đấu thầu... Với Luật PPP đã được sửa đổi, Chính phủ cần tạo cơ chế hết sức thuận lợi để tư nhân tham gia.
“Phải có chính sách khuyến khích, ưu đãi cụ thể khi Nhà nước cần huy động nguồn lực lớn từ khu vực tư nhân, thí dụ chính sách tiếp cận về vốn, ưu đãi thuế cũng như các thủ tục hành chính cần được rút gọn, đơn giản nhất có thể. Đặc biệt, phải cải cách thể chế và môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch để tạo lòng tin cho tư nhân”, TS Nguyễn Quốc Việt, Giảng viên Trường Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) nhấn mạnh.
Từ nay đến năm 2030, tổng nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng của Việt Nam ước tính lên đến hàng chục tỷ USD mỗi năm. Các dự án cao tốc Bắc-Nam, vành đai đô thị, sân bay quốc tế, cảng biển nước sâu, hệ thống logistics, hạ tầng số quốc gia…đòi hỏi nguồn vốn khổng lồ, dài hạn, trong bối cảnh đó, PPP được xem là đòn bẩy nhằm giảm áp lực lên ngân sách Nhà nước. Nếu có cơ chế hấp dẫn, PPP chắc chắn sẽ trở thành động lực tốt phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, Việt Nam hoàn toàn có thể thu hút được các nguồn vốn quốc tế đến từ quỹ đầu tư dài hạn, ngân hàng phát triển và doanh nghiệp toàn cầu tham gia sâu hơn vào các dự án trọng điểm, thay vì phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn trong nước.
