Doanh nhân - Không chỉ là người làm giàu, mà còn là người tham gia gánh vác vận mệnh dân tộc
Lần đầu tiên, thuật ngữ “doanh nhân” đã chính thức đưa vào trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X năm 2006: “…bồi dưỡng, đào tạo và tôn vinh các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt”[2]. Doanh nhân là những người trực tiếp lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp thuộc cả thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế tư nhân. Khẳng định vai trò quan trọng của doanh nhân đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09-12-2011 về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tiếp tục tinh thần đó trong bối cảnh mới, Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 5/4/2025 nhấn mạnh: “xác định doanh nhân là người chiến sĩ trên mặt trận kinh tế”; “Xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam lớn mạnh, có ý chí khát vọng vươn lên, có đạo đức, bản lĩnh, văn hoá kinh doanh, trách nhiệm xã hội và tinh thần dân tộc sâu sắc”[1]. Xây dựng, phát triển doanh nghiệp không thể tách rời việc bồi dưỡng con người lãnh đạo doanh nghiệp - những người tham gia gánh vác sứ mệnh kinh tế quốc dân.
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu tham dự hội nghị triển khai Nghị quyết 68-NQ/TW
Thực tiễn thời kỳ đổi mới cho thấy, trước những khó khăn về kinh tế của đất nước, hay thiên tai, dịch bệnh, biến động thị trường - chính các doanh nghiệp, doanh nhân vẫn kiên cường chèo lái, giữ vững sản xuất và bảo vệ việc làm cho hàng triệu người lao động. Họ là “chiến sĩ trên mặt trận kinh tế”; mỗi quyết định của họ có thể ảnh hưởng đến hàng nghìn lao động, đến sự sống còn của một chuỗi cung ứng hay cả một ngành nghề. Họ dám chấp nhận rủi ro, đương đầu với áp lực, vượt qua khủng hoảng để giữ lửa cho nền kinh tế; là những kiến trúc sư, dùng trí tuệ, tài năng và bản lĩnh để thiết kế lại mô hình phát triển của doanh nghiệp, nâng tầm đất nước trên bản đồ thế giới; Là người tạo ra “nền móng” cho sự phồn vinh, thịnh vượng của đất nước; Là hình mẫu truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ. Sự xuất hiện của doanh nhân thời đại mới không chỉ giúp xây dựng những doanh nghiệp mạnh, mà còn truyền cảm hứng để xã hội đổi mới tư duy - thay đổi cách làm - hướng tới phát triển nhanh và bền vững.
Đạo đức - Văn hóa - Bản sắc: Bộ ba trụ cột tạo nên doanh nhân thời đại mới.
Xã hội, người tiêu dùng ngày càng đặt ra yêu cầu cao đối với doanh nhân và các sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp. Thực trạng hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng tràn lan không chỉ gây thiệt hại cho người tiêu dùng, mà còn làm suy giảm lòng tin vào doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam và ảnh hưởng đến uy tín thương hiệu quốc gia. Ví dụ: Nước mắm không đạt tiêu chuẩn nhưng vẫn ghi “nước mắm truyền thống”; Sữa giả, thuốc giả, thực phẩm chức năng không rõ nguồn gốc;… Do đó, yêu cầu đối với doanh nhân Việt Nam là không làm giàu bằng mọi giá; Không buông bỏ trách nhiệm xã hội; Không đánh mất bản sắc dân tộc trong cơn lốc toàn cầu hóa. Đạo đức, trung thực, và văn hóa ứng xử không chỉ là phẩm chất cá nhân của doanh nhân, mà còn là yếu tố quyết định sự sống còn của doanh nghiệp trong thời đại hội nhập.
Nghị quyết 68-NQ/TW nhấn mạnh: “Doanh nhân Việt Nam cần có đạo đức kinh doanh, trung thực, thanh liêm, văn hóa ứng xử chuyên nghiệp và mang bản sắc dân tộc…”[1]. Đây là bước phát triển trong tư duy, nhận thức của Đảng về yêu cầu cụ thể đối với phẩm chất đạo đức và văn hoá kinh doanh của doanh nhân, nhằm hướng tới sự phát triển bền vững và hài hoà giữa lợi ích kinh tế và xã hội. Do đó, đạo đức, văn hóa, bản sắc là những trụ cột tạo nên doanh nhân Việt Nam trong thời đại mới.
Đào tạo - Bảo vệ - Khuyến khích: Chính sách đồng hành cùng doanh nhân.
Hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân có khoảng hơn 940 nghìn doanh nghiệp, phấn đấu đến 2030 có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn dân. Có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu[1]. Để phát huy vai trò, sứ mệnh của doanh nhân trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Đảng ta đã đặt ra yêu cầu đối với các cấp, các ngành: “Tạo môi trường pháp lý minh bạch, ổn định; có chính sách đào tạo, tôn vinh doanh nhân tiêu biểu; khuyến khích họ tham gia vào hoạch định chính sách và phát triển cộng đồng”[1].
Vậy làm thế nào để những tư tưởng này trở thành hành động thực tiễn, mang lại hiệu quả lâu dài?
Trước hết, môi trường pháp lý cần làm rõ - làm sạch - làm mạnh nhằm tạo ra một môi trường pháp lý thông thoáng, môi trường kinh doanh công bằng, minh bạch, hiện đại. Đây chính là "đường băng" để doanh nhân Việt cất cánh!
Hai là, “có chính sách đào tạo” doanh nhân. Đây là bước chuyển tư duy mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước ta khi không còn xem doanh nhân chỉ là người “được quản lý”, mà là “tài sản”, nguồn lực của quốc gia. Trong Nghị quyết 68-NQ/TW, Đảng ta đã đề ra những chủ trương cụ thể, thiết thực như: “Triển khai chương trình đào tạo, bồi dưỡng 10.000 giám đốc điều hành; huy động các doanh nhân thành đạt tham gia đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm, truyền cảm hứng, hỗ trợ thiết thực, hiệu quả cho đội ngũ doanh nhân”; “Chi phí đào tạo và đào tạo lại nhân lực của doanh nghiệp được tính vào chi phí được trừ để xác định thu nhập chịu thuế khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp”[1],…
Ba là, “Huy động đội ngũ doanh nhân xuất sắc, có tâm, có tầm tham gia quản trị đất nước”[1]. Đây không chỉ là lời mời gọi, mà là một chiến lược hành động, thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước ta. Như vậy, cam kết đồng hành cùng doanh nghiệp tư nhân không chỉ bằng lời nói mà bằng những hành động cụ thể của Đảng, Nhà nước ta để Đảng ta nuôi dưỡng, xây dựng, phát triển một thế hệ doanh nhân dám nghĩ, dám làm vì sự thịnh vượng của dân tộc.
Khát vọng hùng cường - Trách nhiệm lịch sử đặt trên vai doanh nhân
Hơn cả một chiến lược kinh tế, Nghị quyết 68-NQ/TW mang trong mình khát vọng lớn của dân tộc, đó là xây dựng Việt Nam hùng cường vào năm 2045: “Trở thành nước phát triển, thu nhập cao"[3]. Với tinh thần khởi nghiệp sáng tạo, năng động, bản lĩnh và nhạy bén của doanh nhân chính là lực đẩy đưa Việt Nam phát triển trong kỷ nguyên mới. Vì vậy, Đảng ta nhấn mạnh xây dựng đội ngũ doanh nhân “mang trong mình khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh, hùng cường, thịnh vượng”[1]. Khát vọng ấy không nằm ở khẩu hiệu, mà chính là từng hành động, từng dự án, từng bước tiến của các doanh nhân Việt Nam. Mỗi dự án được khởi công không chỉ mang theo ước mơ làm giàu, mà còn là tinh thần trách nhiệm với đất nước, làm giàu cho đất nước, muốn đưa thương hiệu Việt ra thế giới. Chính khát vọng lớn lao ấy đang trở thành động lực mạnh mẽ giúp doanh nhân không ngừng đổi mới, sáng tạo và bền bỉ trên hành trình khẳng định vị thế Việt Nam. VinFast - Chinh phục thị trường xe điện toàn cầu và việc niêm yết trên sàn Nasdaq là lời khẳng định người Việt có thể tạo ra công nghệ và chinh phục thế giới bằng công nghệ; Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) - Đưa công nghệ 5G "Make in Vietnam" ra quốc tế,… Mỗi bước chân doanh nhân Việt ra thế giới là một bước tiến của đất nước. Mỗi sản phẩm, dịch vụ mang thương hiệu Việt là khẳng định bản lĩnh dân tộc. Và mỗi khát vọng lớn của doanh nhân hôm nay chính là nền móng vững chắc cho một Việt Nam thịnh vượng ngày mai.
Tóm lại, doanh nhân - linh hồn của một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Chính doanh nhân đang tạo ra giá trị khác biệt, nâng cao thương hiệu quốc gia trên trường quốc tế, là người kiến tạo, động lực, đổi mới mô hình tăng trưởng, đưa trí tuệ Việt sánh vai với thế giới. Họ không chỉ đại diện cho tài sản, mà đại diện cho giấc mơ khát vọng dân tộc. Và chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam, doanh nhân lại được đặt trong một vị trí trang trọng và giàu kỳ vọng như vậy. Nghị quyết 68-NQ/TW không chỉ là lời kêu gọi, mà là lời cam kết chính trị mạnh mẽ về một hệ sinh thái nơi doanh nhân phát triển song hành cùng sự thịnh vượng của đất nước.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 68 - NQ/TW ngày 5/4/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân;
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.84;
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, tr 112.