Ngày 15-6-1940, Đức tấn công nước Pháp. Ngày 22-6-1940, Pháp đầu hàng Đức vô điều kiện. Trước tình hình mới, Bác Hồ (lúc này mang tên mới “đồng chí Vương”) đã triệu tập cuộc họp Ban Hải ngoại và Người đã phân tích: “Đây là thời cơ thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước để tranh thủ nắm thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”.
Lịch sử mãi mãi nhớ ghi: Ngày 28-1-1941, đất nước đón một người con của dân tộc trước đó 30 năm đi tìm chân lý để về giúp đồng bào trong tình cảm: “Bác đã về đây Tổ quốc ơi/ Nhớ thương hòn đất ấm hơi Người/ Ba mươi năm ấy chân không nghỉ/ Mà đến bây giờ mới tới nơi” (Tố Hữu).
Được sự giúp đỡ của cán bộ và đồng bào địa phương, ngày 8-2-1941, với tên gọi mới là “già Thu”, Bác vào ở và làm việc tại hang Cốc Bó (tiếng Nùng có nghĩa là đầu nguồn), một hang núi kín đáo của dãy núi hùng vĩ.
Tháng 5-1941, Bác đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ VIII của Đảng tại Khuổi Nậm (Pác Bó). Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Lúc này Mặt trận Việt Minh là tổ chức lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng giải phóng: “Chúng ta có hội Việt Minh/ Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh” (10 chính sách của Việt Minh). Chỉ có Việt Minh mới đủ sức lãnh đạo toàn dân ta đứng lên giành độc lập tự do, Bác khuyến khích, động viên mọi người: “Đua nhau vào hội Việt Minh/ Trước giúp nước, sau giúp mình mới nên” (Phụ nữ); “Cùng nhau vào hội Việt Minh/ Ra tay tranh đấu hy sinh mới là” (Công nhân).
Mặt trận Việt Minh đã lôi cuốn, tập hợp quần chúng cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền, góp phần quyết định vào sự thành công của Cách mạng Tháng Tám. Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cực kỳ to lớn, người cầm lái con tàu cách mạng vượt qua bão táp để cập bến độc lập, tự do.
Hai năm 1941-1942 ở Cao Bằng, Bác viết rất nhiều tác phẩm kêu gọi toàn dân đoàn kết một lòng, tuyên truyền, cổ vũ mọi tầng lớp, giai cấp chờ thời cơ đứng lên đánh giặc cứu nước. Đặc biệt, ở tác phẩm Lịch sử nước ta (2-1942), Bác đã đưa ra một dự đoán thời gian nước nhà độc lập: “Việt Nam độc lập: 1945”. Và thực tế lịch sử đã chứng minh dự báo thiên tài của Người. Trước đó, tác phẩm Kính cáo đồng bào (6-6-1941) thể hiện rất rõ tư tưởng về giải phóng dân tộc: “Trong lúc này, quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thẩy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi, lửa bỏng”.
Toát lên từ các tác phẩm trên chính là những vấn đề cốt tử cho một cuộc cách mạng giải phóng: Thứ nhất là việc mở mang dân trí như trong bài viết khuyên đồng bào mua báo Việt Nam độc lập, Bác viết: “Làm cho ta mở mắt mở tai/ Cho ta biết đó biết đây... Cho ta biết nước non là gì...”. Thứ hai là vấn đề tổ chức, Bác coi đây là một trong những nhân tố mang tính quyết định giúp cách mạng sớm thành công; và vai trò của tổ chức là sự lãnh đạo, chỉ đạo là Mặt trận Việt Minh “Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh”. Thứ ba là vấn đề đoàn kết, các tác phẩm của Bác Hồ đều nói lên rằng chúng ta phải biết kết đoàn. Phải đoàn kết lại để mà đấu tranh.
Về việc chuẩn bị lực lượng cho cuộc cách mạng giải phóng, Bác viết tác phẩm đầu tiên về quân sự Cách đánh du kích (1941). Tác phẩm đã góp phần quan trọng giáo dục lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết chiến đấu cho đảng viên và quần chúng cách mạng, đồng thời giới thiệu kinh nghiệm lịch sử và bước đầu nêu lên một số vấn đề về đường lối quân sự chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang.
Cùng với việc chuẩn bị tài liệu cho huấn luyện, Bác cho mở lớp quân sự đầu tiên tại Pác Bó. Bác giao cho đồng chí Đinh Sửu phụ trách lớp. Những học viên của lớp có kể lại chuyện Bác dạy cho bài học về tinh thần thượng tôn dân tộc: Hôm đó đến môn bồng súng chào, cả lớp đang bí không biết chào theo kiểu gì thì được Bác đến thăm. Bác hỏi: “Có gì khó không?”. Sau khi đồng chí Đinh Sửu báo cáo, Bác lại hỏi: “Tây chào kiểu nào?”. Đồng chí Đinh Sửu làm mẫu. Bác lại hỏi: “Tàu chào kiểu nào?”. Đồng chí Đinh Sửu lại cầm súng làm mẫu. Bác nói: “Thế theo kiểu không Tây, không Tàu được không?”...
Và Bác bày cho cả lớp làm: Nâng súng lên, hơi ngả mũi súng về phía trước, cho báng súng áp sát vào đùi, súng và người tạo thành chữ V. Nhìn các đồng chí học viên của lớp làm một lượt, Bác bảo: “Được đấy, chào theo kiểu Việt Minh”.
Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập theo chỉ thị của Bác. Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam hùng mạnh, mang bản chất Bộ đội Cụ Hồ: “Trung với nước, Hiếu với dân. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành. Khó khăn nào cũng vượt qua. Kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Bác đã dạy: “Làm cách mạng phải biết dựa vào thời cơ và phải nhìn chung phong trào mọi nơi, mọi chốn mới chiến thắng”, nên khi chiến tranh thế giới lần thứ hai chuyển biến có lợi cho phe Đồng minh, Bác đã xác định nhiệm vụ cho cách mạng nước ta: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm, hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh”.
Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm Đông Dương. Trước tình hình mới, để có điều kiện kịp thời chỉ đạo phong trào cách mạng đang dâng cao trong cả nước, từ đầu tháng 5-1945, Bác cho chuyển “đại bản doanh” cách mạng từ Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (Tuyên Quang) chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.
Chấp hành chỉ thị của Bác, ngày 4-6-1945, Tổng bộ Việt Minh đã triệu tập hội nghị cán bộ, tuyên bố thành lập Khu giải phóng. Tháng 8-1945, sau khi phát xít Đức đầu hàng Đồng minh, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân ở Tân Trào. Bác ra chỉ thị: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Để lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi tới thắng lợi, Đại hội Quốc dân Tân Trào cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Đại hội Quốc dân Tân Trào đã hoàn thành nhiệm vụ như một Quốc hội dân cử. Đại hội đã thể hiện sự đoàn kết nhất trí của toàn dân tộc Việt Nam trong Mặt trận Việt Minh, biểu thị lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, biểu thị ý chí và quyết tâm đưa cuộc Tổng khởi nghĩa đến thắng lợi hoàn toàn.
Qua những dẫn chứng trên đây, rõ ràng là Pác Bó - Cao Bằng mà trong đó Cốc Bó, Khuổi Nậm là điểm khởi nguồn cho sự chuẩn bị công phu, chu đáo của Đảng, của Bác Hồ cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đi tới thành công, như Bác Hồ đã khẳng định trong lần về thăm lại nơi này (2-1961): “Hai mươi năm trước ở hang này/ Đảng vạch con đường đánh Nhật - Tây/ Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu/ Non sông gấm vóc có ngày nay”.
Công lao chuẩn bị chu đáo của Bác Hồ cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945 như cụ Huỳnh Thúc Kháng với danh nghĩa là Hội trưởng Hội Quốc dân Việt Nam có viết một bức thư dài bằng chữ Hán nhan đề “Kính cáo đồng bào phụ lão kháng chiến”, đã chỉ rõ: “Người thân yêu nhất của đồng bào quốc dân chúng ta là Hồ Chí Minh tiên sinh; là bậc yêu nước đại chí sĩ; là nhà lịch nghiệm cách mạng đại chuyên gia: Chân đi khắp 5 châu, mắt trông xa vạn dặm. Nhận rõ thời cuộc, lặng đồ thời cơ. Tổ chức giải phóng du kích quân, lãnh đạo thanh niên, cán bộ, bộ đội. Quân dân một chí, ước vạn đồng lòng. Chất chứa lâu ngày, chuốt mài đứng dậy. Cầm đầu giơ tay kêu gọi là trận tuyến Việt Minh. Hưởng ứng múa gậy đứng lên là dân quân toàn quốc. Tiếng sấm đứng lên dậy đất, thế quân vang dội long trời. Cây cỏ hùa theo giúp oai linh, nước non quanh theo hò hét. Sao 5 cánh cờ hồng che khắp vùng quê, ngõ chợ, phất phẩy cùng nơi... Sướng ơi là sướng, thoát thân nô lệ làm chủ nhân ông. Vui thật là vui, đổi quyền vua mà làm dân quốc mới”.
Ôn lại những sự kiện lịch sử để khẳng định sự chuẩn bị trên đây là cơ sở chắc chắn cho thắng lợi tất yếu của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, để nhớ “một kho lịch sử bằng vàng” về ngày độc lập dân tộc nước nhà mà Bác Hồ đã lãnh đạo Đảng ta, nhân dân ta viết nên từ 75 năm trước.
Theo Hanoimoi.com.vn