Trong 95 năm qua, ngoài trí tuệ, thể hiện qua đường lối chính trị đúng đắn trong mỗi thời kỳ lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam còn thể hiện bản lĩnh của mình, nhất là trong các bước ngoặt của cách mạng, chính vì thế Đảng đã vững tay chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh để lướt tới
Vượt qua bao khó khăn, gian khổ, hy sinh để giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám
Bản lĩnh lãnh đạo của Đảng thể hiện rõ nét trong những năm tháng lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh giải phóng, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Trong 15 năm lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, Đảng đã vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ, hy sinh. Hệ thống tổ chức Đảng từ Trung ương đến chi bộ thường xuyên bị kẻ thù đánh phá, bị phá vỡ, phải lập đi lập lại nhiều lần. Nhiều Tổng Bí thư của Đảng đã hy sinh anh dũng. Hàng nghìn cán bộ, đảng viên trung kiên cũng vì dấn thân vào cuộc đấu tranh mà phải vào tù ra khám nhiều lần, vượt qua những địa ngục trần gian, rừng thiêng nước độc, lao tù đày ải, để tiếp tục trở về lãnh đạo nhân dân đấu tranh.
Hẳn chúng ta còn nhớ cao trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh đã bị thực dân, phong kiến đàn áp khốc liệt. Sau cao trào này, phong trào cách mạng phải tạm thời lắng xuống bởi những thiệt hại to lớn của phong trào cách mạng nói chung và phong trào cách mạng Nghệ- Tĩnh nói riêng, nhưng chỉ vài năm sau đã phục hồi mạnh mẽ trong cao trào dân chủ 1936-1939.
Hẳn chúng ta còn nhớ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra trong bối cảnh chưa có thời cơ cách mạng cách mạng, đã bị chính quyền thuộc địa “dìm trong biển máu” với hàng trăm chiến sĩ cộng sản và quần chúng yêu nước hy sinh, hàng nghìn chiến sỹ cách mạng và người yêu nước bị bắt bớ, cầm tù. Ngay sau những ngày khởi nghĩa Nam Kỳ, nhiều lãnh đạo của Đảng như Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Phạm Văn Sáng, Đặng Công Bình, Nguyễn Hữu Tiến đã bị thực dân Pháp đưa ra xử bắn để khủng bố phong trào …Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, chính quyền thuộc địa dự tính phải 15 năm sau, phong trào cách mạng Nam Kỳ mới có thể gượng dậy được. Thế nhưng, như chúng ta đã thấy, chỉ 5 năm sau, Sài Gòn và Nam Kỳ đã cùng cả nước đứng lên tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Vượt qua tất cả những gian khổ, hy sinh đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đoàn kết toàn dân tộc, kể cả những lực lượng mà Quốc tế Cộng sản cho là đối tượng đấu tranh, tranh thủ thời cơ quốc tế thuận lợi, lãnh đạo toàn dân đứng lên giành chính quyền trong tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong lịch sử Việt Nam đương thời, các phong trào yêu nước và cách mạng, dù kéo dài gần 30 năm như khởi nghĩa nông dân Hoàng Hoa Thám, dù oanh liệt như Việt Nam Quốc Dân Đảng, sau khi bị đàn áp, cũng không thể phục hồi, tái sinh, để có thể tiếp tục lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đến thắng lợi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sau lễ ký Hiệp định Sơ bộ (Ảnh tư liệu)
Vượt qua tình thế “nghìn cân treo sợi tóc” sau Cách mạng Tháng Tám
Sau Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ đứng trước những thử thách khắc nghiệt về kinh tế, văn hóa, xã hội nhưng lớn nhất là thách thức về chính trị với “thù trong giặc ngoài”. Quân đội Anh ở Nam vĩ tuyến 16 hậu thuẫn quân đội Pháp nổ súng tái chiếm Nam Bộ chỉ sau ngày độc lập có 3 tuần, 20 vạn quân đội Trung Hoa dân quốc ở Bắc vĩ tuyến 16 cùng những tổ chức chính trị tay sai phản động với âm mưu “diệt cộng, cầm Hồ”. Kẻ thù còn hòa hoãn với nhau nhằm “bóp chết” cách mạng Việt Nam bằng Hiệp ước Pháp-Hoa 28/02/1946.
Trước tình thế nguy ngập đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẩn trương giải quyết các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội và bình tĩnh, sáng suốt giải quyết nạn “thù trong giặc ngoài”. Ở miền Nam, Đảng lãnh đạo nhân dân kiến quyết kháng chiến, chỉ với gậy tầm vông chống lại xe tăng, đại bác, nhưng đã cản được bước tiến quân thù. Ở miền Bắc, chủ trương “hòa để tiến” của Đảng đã lần lượt loại bỏ những mối nguy treo lơ lửng trên đầu, trước hết với Hiệp định Sơ bộ 06/3/1946 đã “đẩy” 20 vạn quân đội Quốc dân Đảng Trung Hoa về nước, qua đó giải quyết mối nguy trước mắt, các đảng phái chính trị tay sai phản động với vụ án Ôn Như Hầu cũng lộ mặt phản dân, hại nước, phải nhanh chóng cuốn xéo theo quan thầy. Tiếp đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp tục ký với Pháp Tạm ước 14/9 nhằm tranh thủ thời gian ít ỏi, quý báu để xây dựng và củng cố lực lượng cách mạng, nhất là lực lượng vũ trang để rồi đến cuối tháng 12/1946, khi khả năng hòa hoãn không còn nữa, tiếp tục thỏa hiệp là xâm phạm đến quyền lợi cao trọng của dân tộc, Đảng đã chủ động phát động cuộc toàn quốc kháng chiến ngay tại Thủ đô Hà Nội và cầm chân thực dân Pháp gần hai tháng để các cơ quan của Đảng và Chính phủ có đủ thời gian rút lui lên căn cứ kháng chiến lâu dài.
Có thể nói 16 tháng kháng chiến, kiến quốc đã chứng minh bản lĩnh của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, một Đảng vừa mới lên cầm quyền, đã xử lý xuất sắc nhiều vấn đề đối nội và đối ngoại, đưa đất nước thoát ra khỏi những khó khăn về kinh tế, phát triển về văn hóa, xã hội và đặc biệt chống đỡ có hiệu quả, đứng vững trước mưu đồ thâm độc của các thế lực phản động quốc tế và trong nước, bảo vệ được nền độc lập, tự do của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ.
Bản lĩnh trong đương đầu và đánh bại hai đế quốc hùng mạnh, giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu biên giới
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng đã phải lãnh đạo nhân dân chiến đấu trong vòng vây hơn 4 năm đầu (1946- 1950), chiến đấu với kẻ thù mạnh hơn mình rất nhiều. Nhưng với đường lối kháng chiến đúng đắn: toàn dân, toàn diên, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, với bản lĩnh của Đảng cầm quyền, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đánh bại từng kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, cuối cùng đánh bại Kế hoạch Navarre, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, khi thực lực của Đảng tại miền Nam Việt Nam chỉ còn lại một, hai phần mười, do sự đánh phá khốc liệt của chính quyền phản động tại miền Nam, những đảng viên gạo cội, trung kiên còn lại vẫn bám đất, bám dân, lãnh đạo phong trào cách mạng và làm nên cuộc Đồng khởi long trời, lở đất đầu năm 1960, chuyển cách mạng Việt Nam tại miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, chuyển từ đấu tranh chính trị sang tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng miền Nam.
Khi đế quốc Mỹ trực tiếp đưa hàng trăm nghìn quân sang xâm lược Việt Nam, trong bối cảnh phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự mâu thuẫn, bất hòa sâu sắc, đặc biệt là giữa Liên Xô và Trung Quốc, Đảng đã bản lĩnh xây dựng quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ trong cuộc đụng đầu lịch sử, khắc phục tư tưởng sợ Mỹ, tìm ra cách đánh Mỹ có hiệu quả, ở miền Nam đánh bại từng chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, đồng thời đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc xã hội chủ nghĩa, cuối cùng tiến lên “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, thực hiện lời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Chiến thắng Núi Thành, thắng lợi đầu tiên trong cuộc đối đầu với quân đội Mỹ (Ảnh tư liệu)
Vừa ra khỏi chiến tranh, trong bối cảnh hậu quả chiến tranh 20 năm nặng nề, lại bị chủ nghĩa đế quốc bao vây cấm vận, các quốc gia xã hội chủ nghĩa cắt giảm viện trợ, chỉ trong hơn ba năm, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu biên giới Tây Nam và phía Bắc, thực hiện xuất sắc nghĩa vụ quốc tế với nhân dân Campuchia anh em.
Bản lĩnh trong kiên trì con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu
Những năm cuối thập kỷ 90 thế kỷ XX, trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa Liên xô và Đông Âu sụp đổ, đất nước chìm trong khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng, một bộ phận cán bộ, đảng viên hoang mang, dao động, các thế lực thù địch chống phá quyết liệt, Đảng đã lãnh đạo nhân dân, kiên định con đường tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận những quan điểm sai trái, có thể làm phương hại đến mục tiêu, con đường xây dựng đất nước mà Đảng và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.
Cuối cùng, trí tuệ và bản lĩnh của Đảng thể hiện rõ nét qua gần 40 năm khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước. Qua các cương lĩnh của Đảng, Đảng khẳng định lãnh đạo sự nghiệp đổi mới trên cơ sở dựa chắc vào Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả hơn bằng những quan điểm đúng đắn về mô hình chủ nghĩa xã hội, bằng những biện pháp và bước đi thích hợp. Thực hiện đổi mới toàn diện gồm đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong bối cảnh mới.
Có thể nói, trong mỗi bước ngoặt của cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện bản lĩnh của Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền, từng bước đưa dân tộc ta tìm ra con đường tiến lên giành thắng lợi, trong kháng chiến là phải đương đầu với những kẻ thù lớn mạnh hơn rất nhiều, trong hòa bình là những thách thức to lớn, phức tạp của bối cảnh quốc tế và khó khăn trong nước, để rồi cuối cùng đưa dân tộc ta tiến lên giành được những thắng lợi huy hoàng, không chỉ Đảng ta, nhân dân ta tự hào, mà bạn bè quốc tế cũng phải ghi nhận.
Xuân Nguyễn