Về đánh giá tình hình, môi trường chiến lược mới
Đảng đã cập nhật, dự báo những vấn đề mới chi phối đến sự nghiệp BVTQ của nước ta. Trước hết là cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm, nếu trước đây ở mức đang hình thành thì nay đã rõ nét hơn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn từ gay gắt đến mức độ quyết liệt, thậm chí có lúc đối đầu, trực diện. Xuất hiện nhiều điểm nóng an ninh và các hình thái chiến tranh, loại hình tác chiến, không gian chiến lược mới, đa dạng lĩnh vực (như kinh tế, công nghệ, vận tải, văn hóa, quyền lực mềm), không gian địa-vật lý (như đáy biển, lòng đại dương, không gian mạng, không gian vũ trụ).
Tình trạng đề cao chính trị cường quyền và các biểu hiện của nó diễn ra tinh vi, phức tạp hơn; luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước vừa và nhỏ đứng trước những thách thức nghiêm trọng.
Tàu thuộc biên chế Lữ đoàn 955, Vùng 4 Hải quân thực hành tiếp nhận quân trong diễn tập trên biển. Ảnh: VĂN QUYỀN |
Khoa học - công nghệ và Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cả thời cơ và thách thức. Thách thức an ninh phi truyền thống nổi lên, gay gắt và ngày càng mở rộng, không chỉ thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu mà còn chiến tranh không gian mạng, tác chiến vũ trụ, trí tuệ nhân tạo, nano, an ninh năng lượng, an ninh kinh tế, an ninh thông tin, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh mạng... diễn biến ngày càng phức tạp, tác động đa chiều, trực tiếp đến nhiều mặt của đời sống xã hội, ở nhiều tầng nấc khác nhau; quy mô tác động rộng lớn, tạo ra thách thức đối với nước ta trong thời gian tới.
Về quan điểm, mục tiêu
Trong cấu trúc văn bản nghị quyết về Chiến lược BVTQ lần này, Đảng đưa quan điểm lên trước mục tiêu nhằm thể hiện rõ tư duy mới về vai trò của quan điểm với tư cách là nhận thức, tư duy, cách tiếp cận của Đảng về BVTQ trước khi đề cập mục tiêu. Mặt khác, lần này Đảng khái quát gọn với 5 quan điểm, thay cho 7 quan điểm mà Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI xác định.
Bên cạnh việc tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nghị quyết lần này đã đưa vào nội dung mới, đó là phương châm dựa vào dân, “dân là gốc”, là trung tâm, chủ thể, đặc biệt nhấn mạnh tinh thần yêu nước, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, ý chí tự lực, tự cường của con người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ; xây dựng “thế trận lòng dân" vững chắc, yên dân là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và BVTQ.
“Dựa vào dân”, “dân là gốc”, phát huy ý chí, nghị lực, vai trò của thế hệ trẻ không phải là vấn đề mới trong các văn kiện của Đảng, nhưng đây là lần đầu tiên được đưa vào quan điểm chính thống của Chiến lược BVTQ. Nó thể hiện nhận thức sâu sắc, sự vận dụng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống, thực tiễn, bài học kinh nghiệm xương máu qua mấy nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam về vai trò của nhân dân trong lịch sử.
Điểm mới nổi bật trong tư duy, nhận thức của Đảng lần này là quan điểm “3 kiên” (gồm kiên định, kiên quyết, kiên trì), cụ thể là:
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, học thuyết BVTQ xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Lênin, tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh... (với tư cách là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng); kiên định với đường lối quốc phòng toàn dân (QPTD), chiến tranh nhân dân, với mục tiêu cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam (là lập trường nhất quán của Đảng). Kiên định, vững vàng, không hoang mang, dao động trước mọi sự tiến công, chống phá của kẻ thù.
Kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình và các thành quả cách mạng, sự ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ và các hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, cơ hội chính trị, cục bộ, lợi ích nhóm, sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Kiên trì vừa hợp tác vừa đấu tranh, giải quyết các vấn đề tranh chấp, mâu thuẫn, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế; kiên trì bám sát thực tiễn, địa bàn, cơ sở, phát hiện, ngăn ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi từ sớm, từ xa mọi nguy cơ xung đột, chiến tranh; kiên trì giáo dục, thuyết phục, cảm hóa người lầm đường, lạc lối; kiên trì phòng ngừa đi đôi với nghiêm trị các hành vi vi phạm pháp luật, chống phá đất nước; tuyệt đối không nóng vội, chủ quan trong xử lý các vấn đề thuộc về lợi ích của đất nước, dân tộc.
Với nghị quyết trước, chúng ta mới đề cập về tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng, an ninh (QPAN), thì lần này có sự phát triển mới tư duy của Đảng về QPAN. Nghị quyết đã chỉ rõ hơn, rộng hơn, đầy đủ hơn cả những điểm nhấn quan trọng đối với QPAN, đó là: Không ngừng gia tăng tiềm lực, sức mạnh tổng hợp mọi mặt của quốc gia. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ. Tăng cường đầu tư xây dựng nền QPTD, nền an ninh nhân dân, LLVT nhân dân, đáp ứng yêu cầu BVTQ trong mọi tình huống.
Nếu trước chỉ rõ nội hàm lợi ích cao nhất của đất nước thì lần này, quan điểm chỉ ra định hướng của việc “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, bình đẳng, tôn trọng, hợp tác, cùng có lợi”, tạo thuận lợi cho thực tiễn hành động BVTQ phù hợp hơn.
Quan điểm về đối tác, đối tượng có một điểm rất mới định hướng cả trước mắt và lâu dài, đó là: “Nỗ lực thúc đẩy hợp tác, giảm bất đồng, xung đột để đạt lợi ích cao nhất trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ” thời kỳ mới. Đây là tư duy linh hoạt, sáng tạo, thể hiện đúng phương châm, quan điểm “thêm bạn, bớt thù”, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Về mục tiêu BVTQ: Điểm mới trong tư duy của Đảng khi xác định mục tiêu chung của nghị quyết lần này là việc diễn đạt rành mạch hơn khi khẳng định bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc, trên cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ XHCN; bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), nền văn hóa; đồng thời bổ sung nội dung bảo vệ uy tín, vị thế quốc tế của đất nước, bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng...; triệt tiêu các nhân tố gây mất ổn định chính trị từ bên trong... dập tắt nguy cơ xung đột quân sự, chiến tranh. Điều này cho thấy, nghị quyết về Chiến lược BVTQ trong tình hình mới vừa kế thừa, vừa phát triển nội dung cơ bản của Nghị quyết Đại hội XIII, làm cho mục tiêu bao quát, toàn diện, rõ nét hơn.
Trong mục tiêu cụ thể, nghị quyết xác định 5 nội dung, bao gồm các lĩnh vực cơ bản của đất nước.
Trước hết là về Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị: Nếu Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI xác định là “Tạo chuyển biến rõ nét trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước”, thì Nghị quyết Trung ương 8, khóa XIII chú trọng việc “Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu, nêu gương của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ... Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trong sạch, vững mạnh toàn diện”. Như vậy, công tác xây dựng Đảng, Nhà nước có mục tiêu cao hơn, đồng thời nghị quyết còn bổ sung thành tố “đội ngũ cán bộ, hệ thống chính trị” thể hiện tính toàn diện và rất sát thực trong tư duy về BVTQ của Đảng.
Về sức mạnh BVTQ: Không chỉ đề cập sức mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại, nghị quyết lần này đặc biệt đề cao sức mạnh của nhân dân, yếu tố dân chủ XHCN, niềm tin của nhân dân, đồng thuận xã hội, đặc biệt là mục tiêu nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, nhấn mạnh đoàn kết trong toàn Đảng làm hạt nhân tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc... Đây là sự quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của sự nghiệp BVTQ, cũng chính là sự cụ thể hóa tư tưởng “yên dân”, “thế trận lòng dân” vững chắc và vai trò hạt nhân của đoàn kết trong Đảng-nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và BVTQ thời kỳ mới.Mục tiêu về kinh tế với tư cách là yếu tố trung tâm của tiềm lực quốc phòng, sức mạnh nền QPTD, Đảng nhấn mạnh chủ trương: Cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng cường chuyển đổi số, CNH, HĐH, phát triển đất nước toàn diện, nhanh, bền vững...
Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế thì các nghị quyết trước đã đề cập nhiều, nhưng điểm mới so với Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI là việc đưa nội dung chuyển đổi số, CNH, HĐH đất nước toàn diện, nhanh, bền vững. So với Nghị quyết Đại hội XIII, Đảng ta đã bổ sung nội dung phát triển đất nước “toàn diện”, đặt mục tiêu “toàn diện” đứng trước “nhanh, bền vững”. Tính toàn diện của nền kinh tế có thể hiểu là trên tất cả các ngành, thành phần, các cơ cấu lĩnh vực, vùng, miền, vĩ mô, vi mô, trong nước, ngoài nước, kinh tế tri thức, kinh tế số...; đồng thời toàn diện trên cả 4 khâu là sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng; có toàn diện mới giúp phát triển bền vững hơn.
Điểm nhấn so với nghị quyết lần trước là đưa định hướng phát triển nền công nghiệp quốc gia, xây dựng nền công nghiệp QPAN chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Điều này thể hiện rõ sự kế thừa, phát triển tư duy mới của Nghị quyết Đại hội XIII về tiềm lực kinh tế, khoa học-công nghệ của nền QPTD, sự nghiệp BVTQ.
Nhận thức sâu sắc vai trò của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ, trong mục tiêu cụ thể của Nghị quyết Trung ương 8, khóa XIII đã bổ sung nội dung mới về văn hóa, đó là: Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, phát huy giá trị tốt đẹp truyền thống của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế.
Các mục tiêu về tăng cường QPAN, xây dựng LLVT và hội nhập quốc tế đều kế thừa Nghị quyết Đại hội XIII, làm cho mục tiêu cụ thể của Chiến lược BVTQ trong tình hình mới được khái quát đầy đủ, toàn diện trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
Về phương châm chỉ đạo
Nhất quán với Nghị quyết số 24-NQ/TW về Chiến lược quốc phòng, Đảng ta chính thức đưa phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trở thành phương châm đầu tiên, bao trùm, dẫn dắt các phương châm khác của Chiến lược BVTQ trong tình hình mới. Vấn đề cơ bản, cốt lõi, bất biến chính là lợi ích quốc gia-dân tộc, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải quán triệt, thực hiện.
Tên lửa của Sư đoàn 361 tại diễn tập các lực lượng phòng không do Quân chủng Phòng không - Không quân tổ chức. Ảnh: SƠN BÌNH |
Bên cạnh đó, nghị quyết lần này cũng đưa phương châm giữ “trong ấm, ngoài êm”, "bốn không", vừa hợp tác vừa đấu tranh, cân bằng, hài hòa lợi ích trong quan hệ với các nước. Nghị quyết cũng chính thức đưa định hướng BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy từ Nghị quyết Đại hội XII và XIII trở thành phương châm của Chiến lược BVTQ thời kỳ mới: Bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy; chủ động phòng ngừa, giữ vững ổn định bên trong là chính; ngăn ngừa bất hòa, bất đồng, nguy cơ bạo động, xung đột, chiến tranh, làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Một điểm mới trong xác định phương châm chiến lược là Đảng ta đưa nội dung chủ động thiết lập tuyến phòng thủ, tạo vành đai an ninh từ xa để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đây là sự kế thừa, phát triển tư duy của Đảng về vai trò phòng thủ quốc gia, phòng thủ dân sự, phòng thủ quân khu, khu vực phòng thủ trong nước với việc phát huy vai trò của tiềm lực, thế trận đối ngoại, huy động nguồn lực quốc tế, tạo vành đai an ninh phòng thủ từ sớm, từ xa, từ bên ngoài lãnh thổ.
Về nhiệm vụ, giải pháp
Nhất quán như nghị quyết trước, Đảng tiếp tục xác định 6 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, nhưng thứ tự có sự điều chỉnh. Trong Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI, nhiệm vụ, giải pháp về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” kết cấu ở mục thứ tư thì Nghị quyết Trung ương 8, khóa XIII nội dung này ở mục thứ hai và bổ sung nội hàm rộng hơn: "Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và BVTQ". Điều này thể hiện nhận thức, tư duy ngày càng chính xác, sâu sắc hơn về vai trò của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, của dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân và tư tưởng “yên dân”, “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp BVTQ; nó cũng thể hiện sự nhất quán trong tư duy của Đảng từ quan điểm đến mục tiêu, phương châm cho đến nhiệm vụ, giải pháp về vai trò của nhân dân trong BVTQ thời kỳ mới.
Nội dung chi tiết các nhiệm vụ, giải pháp đều có kế thừa, cập nhật và bổ sung, phát triển các nhiệm vụ cụ thể trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội, sát hơn với tình hình thực tiễn trong nước cũng như bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.
Nghị quyết Trung ương 8, khóa XIII về Chiến lược BVTQ trong tình hình mới là sản phẩm kết tinh công sức, trí tuệ, là tư duy mới, sáng tạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cơ quan tham mưu của Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành Trung ương, các địa phương; trong đó, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng là cơ quan nòng cốt, trung tâm tham mưu trong suốt quá trình tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI và xây dựng nghị quyết mới về Chiến lược BVTQ trong tình hình mới. Nghị quyết là những định hướng căn cốt, lâu dài, là cẩm nang cho đất nước, dân tộc trong sự nghiệp BVTQ. Quán triệt, nắm chắc nội dung cơ bản, nhất là các nội dung mới của nghị quyết là cơ sở để học tập, quán triệt, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch triển khai thực hiện sát thực, sớm đưa nghị quyết vào cuộc sống, thực hiện thắng lợi sự nghiệp BVTQ trong thời kỳ mới.
Nguồn QĐND