Tây Nguyên, nơi vùng đất cao nguyên quanh năm bạt ngàn gió và nắng này, con người sống cùng rừng, gắn với rừng, hòa vào rừng. Hãy thử quan sát, mọi thứ trong làng, trong nhà, mọi thứ để con người tồn tại cả về vật chất lẫn tinh thần, tất cả đều lấy từ rừng: mái nhà, cột nhà, sàn nhà, vách nhà, cột đâm trâu tế thần, cây đàn tình tự, con thuyền độc mộc… Rừng vây bọc lấy con người, đi vào tận thẳm sâu tâm hồn người. Rừng là nơi khơi nguồn và cất giữ tâm linh, rừng mang bóng dáng của tổ tiên.
Cuộc sống sinh hoạt của người Tây Nguyên luôn được bao bọc bởi rừng. Ảnh: baodantoc
Khi cuộc sống với bốn bề là rừng bao phủ, thậm chí rừng còn hiện diện trong từng ngôi nhà, xuyên suốt trục thời gian – không gian tồn tại của con người, thì rừng, đối với người Tây Nguyên là máu thịt, là nguồn cội, thậm chí còn là bản nguyên nữa. Người Ê Đê từng truyền nhau rằng: “Rừng núi là của yang cho/ Của ông bà để lại”. Hay người M’nông quan niệm: “Đất đai tổ tiên để lại/ Nếu bán đất cũng như bán ông bà”.
Rừng không chỉ là không gian, rừng còn là thời gian. Khi con người bắt đầu cất tiếng khóc chào đời đã được cha mẹ dạy cho cách thức dệt vải bằng cách làm một khung dệt nhỏ xíu đặt vào tay cô con gái hay cây ná xinh xắn đặt vào tay cậu con trai cùng bao lời nhắn gửi trong lễ khai tâm. Đến tuổi cập kê, bó củi hứa hôn sẽ là tiêu chí để mọi người đánh giá sự đảm đang, khéo léo của người con gái; chiếc gùi được đan tinh xảo, đẹp mắt sẽ là bằng chứng về sự trưởng thành của người con trai. Và đến khi con người giã từ cuộc sống, những cột nhà mồ, những ngôi nhà mồ, những tượng mồ… lại là nơi trú ngụ của linh hồn, lại đồng hành với linh hồn người chết về với thế giới của tổ tiên ông bà.
Người già trong làng thường cất giữ trong kí ức của mình những câu chuyện huyền thoại về các vị thần rừng, những sự trừng phạt khủng khiếp đối với những kẻ ngạo mạn dám diễu cợt thần linh, những kiêng kị để tránh làm phật lòng thần, những thực hành truyền thống để duy trì sự bền vững, trường tồn của cộng đồng. Tính chất lưỡng đôi khiến rừng vừa trở nên gần gũi lại cũng đầy huyền bí, vừa hữu ích nhưng cũng không hoàn toàn vô hại.
Với người Tây Nguyên, khi bắt đầu tìm đất lập làng mới cũng là lúc người ta tìm cho làng của mình khu rừng thiêng, nơi đó hoặc là khu rừng đầu nguồn nước, rừng trên chóp núi để giữ nước, chống xói mòn với những câu chuyện được thêu dệt về nữ thần Nước xinh đẹp làm cho con người lạc lối trong rừng bằng giọng hát mê hồn của mình; hoặc là khu rừng dùng làm nghĩa địa chung của cả làng mà người Tây Nguyên vẫn quen gọi là “rừng ma” - nơi chẳng mấy ai bén mảng tới. Người ta sợ linh hồn của người chết, nhất là chết dữ, quẩn quanh nghĩa địa sẽ làm hại những ai xâm phạm vào thế giới riêng của nó. Rừng thiêng với tính thiêng bao bọc quanh nó nên con người thường kiêng dè không dám vào đấy chặt phá hay đốt rừng làm rẫy cho nên đó thường là những khu rừng nguyên sinh, những khu rừng già khó đoán tuổi.
Mỗi một làng bao giờ cũng có một khu rừng thiêng cho riêng mình và địa vực của nó thường được phân mốc bằng gốc cây, hòn đá lớn hay con suối. Có thể có những đường ranh giới chỉ mang tính ước lệ, nhưng đều được các cộng đồng bên cạnh thừa nhận và tôn trọng. Ranh giới này thường do người già và người có công khai phá vùng đất đó hoạch định. Người Tây Nguyên vẫn truyền nhau những kiêng kị như không được xâm phạm đến rừng thiêng của làng khác, không được chôn chung nghĩa địa với làng khác, khu rừng thiêng dùng làm nghĩa địa phải nằm thấp hơn khu đất làng… Nếu vi phạm, cả cộng đồng sẽ phải nhận lấy sự trừng phạt ghê sợ từ thần linh, hoặc đau ốm bệnh tật, hoặc những tai nạn chết người…
Từ những quan niệm và cách hiểu như vậy về rừng nên rừng của người Tây Nguyên luôn được bảo vệ cẩn thận vì nó gắn với ông bà tổ tiên, gắn với sinh mệnh, với sự trường tồn của cộng đồng. Bảo vệ rừng, với đồng bào, vừa là trách nhiệm vừa là nghĩa vụ thiêng liêng: “Đất đai, sông suối, cây rừng (là) cái nong, cái nia, cái lưng của ông bà/ Ông bà là người giữ cái hang, trông coi rừng, trông coi cây ktơng, cây kdjar/ Nếu cây quéo không ra hoa, cây muỗm ra hoa không tốt đó là vì con cháu đã mất nết hư thân/ Vì vậy, ông bà thử hỏi trưởng buôn xem/ Ông bà sẽ phạt kẻ có tội một lợn, ông bà sẽ đòi kẻ có tội một gà” (Luật tục Ê Đê). Như vậy, trong cảm quan của người Tây Nguyên, cái thiêng của rừng, miền thiêng của đời sống tâm linh trở thành một nhân tố canh giữ (và cao hơn, trở thành một biểu tượng) cho đạo đức của mỗi cá nhân và cả cộng đồng.
Rừng gắn bó với văn hóa tâm linh của người Tây Nguyên. Ảnh: baodantoc
Có thể thấy rằng với cách “thiêng hóa” những cánh rừng, người Tây Nguyên từ ngàn đời nay đã xây dựng được mối quan hệ bền vững với tự nhiên. Điều đó đã thể hiện nét độc đáo trong cách thức ứng xử văn hoá với môi trường, trong cách thức trao truyền những tri thức bản địa truyền thống cho những thế hệ kế tiếp. Đấy chính là chiều sâu cơ bản của văn hoá Tây Nguyên.
Với người Tây Nguyên có rừng là có tất cả và mất rừng là mất đi phần lớn môi trường và điều kiện sống, ít nhất là như vậy! Chúng ta phải chấp nhận một thực trạng chung là hiện nay rừng Tây Nguyên đang mất dần, những khu rừng thiêng không còn dáng vẻ thâm u của nó, rừng đang bị khai thác và xâm hại không theo quy luật khai thác và bảo vệ mà mang nặng tính phá hoại, ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường sống và sự sinh tồn của tộc người.
Rõ ràng khi rừng không còn, khi cơ sở cho những thực hành tín ngưỡng truyền thống không tồn tại trong đời sống tâm linh của con người, khi người ta bước chân vào nơi trước đây là chốn linh thiêng một cách tự nhiên không kiêng dè để khai thác và chặt phá rừng, khi luật tục không còn đủ sức mạnh để ràng buộc con người vào trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ rừng... thì rừng đang ngày một xa con người, văn hoá rừng ngày một nhạt nhoà trong tâm thức con người.
Vậy chúng ta cần phải làm gì để tri thức về rừng, tâm thức rừng của người Tây Nguyên không bị mai một đi trong xu thế giao lưu, hội nhập văn hoá, trong ‘sự va chạm của các nền văn minh’’?! Để bảo lưu những giá trị văn hóa truyền thống tộc người không gì khác hơn là đặt nó vào không gian văn hóa, không gian sinh tồn nơi nó ra đời, tồn tại và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử, trong quá trình vận động và phát triển tộc người. Như vậy sâu xa hơn chính là việc khôi phục lại đất rừng, khôi phục lại những cánh rừng, khôi phục lại tính thiêng của rừng trong tâm thức của chính những tộc người bản địa. Chỉ trên cơ sở đó cội nguồn văn hoá tộc người mới hồi sinh.
Mặt khác chúng ta nhận thấy rằng không phải văn hoá là cái chủ yếu mà điều quan trọng chính là con người sống trong văn hoá đó, hay nói cách khác chính họ là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá mà họ tạo dựng nên từ môi trường sống của mình. Chính họ mới là thành viên thực sự của nền văn hoá của chính mình. Chỉ có họ mới xác định được nó là gì, hiểu mình phải làm gì và nên như thế nào. Ý thức được tầm quan trọng của rừng sẽ giúp họ có thái độ tích cực với tài nguyên rừng, với những gì thiết thân gắn với cuộc sống của họ. Tâm thức rừng của các tộc người Tây Nguyên chính là cội nguồn, là mạch ngầm làm nên những giá trị cơ bản của văn hoá rừng Tây Nguyên.
Cao Nguyên