Ra đời trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng thanh niên xung phong nhanh chóng xây dựng và trưởng thành, góp phần làm nên thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Lịch sử Thanh niên xung phong Việt Nam là những trang vàng đậm nét về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thanh niên Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung
Thanh niên xung phong ra đời, góp phần vào thắng lợi kháng chiến chống Pháp
Ngày 15/7/1950, Đội Thanh niên xung phong công tác Trung ương được thành lập-tiền thân của Lực lượng Thanh niên xung phong Việt Nam. Từ đội ngũ ban đầu chỉ có 225 cán bộ, đội viên, không lâu sau đó, đội ngũ đã lên đến ba, bốn chục nghìn đội viên.
Ngày 28/3/19511, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Liên phân đội 312 – Đội Thanh niên xung phong công tác Trung ương đang làm nhiệm vụ tại Cầu Nà Cù, xã Cẩm Giàng, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn, tặng các đội viên bốn câu thơ:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”2
Sau khi thành lập, Thanh niên xung phong đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao và lập công to lớn trên các chiến trường, chiến dịch lớn như: Biên Giới, Tây Bắc, Việt Bắc, Trung Du, Hòa Bình, Bình Trị Thiên, Liên khu 5, miền Đông Nam Bộ và đồng bằng Bắc Bộ, ,…Điển hình như các Đội Thanh niên xung phong chủ lực ở miền Bắc: Đội 34 và Đội 40 có 16.000 người làm nhiệm vụ tại mặt trận Điện Biên Phủ; Đội Thanh niên xung phong 36 với 2.500 đội viên đã vinh dự được phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ ở An toàn khu Việt Bắc (ATK).
Thanh niên xung phong thời kỳ kháng chiến chống Pháp từ Bắc đến Nam đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, lập thành tích to lớn trên các chiến trường, để lại tấm gương, tinh thần dũng cảm cho các thế hệ Thanh niên xung phong Việt Nam sau này.
TNXP vận chuyển vũ khí, đạn dược trong KCCM,CN (Ảnh tư liệu)
Củng cố tổ chức, phát triển lực lượng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Hưởng ứng lời kêu gọi kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng thanh niên bừng bừng khí thế dấy lên các phong trào “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang” (ở miền Bắc), “Năm xung phong” (ở miền Nam)”
Tại miền Bắc, Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam phát động phong trào “ Ba sẵn sàng”, đó là: Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu dũng cảm và sẵn sàng nhập ngũ (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ); Sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, công tác và học tập trong bất kỳ tình huống nào; Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần đến.
Tại miền Nam, Đoàn Thanh niên Nhân dân cách mạng miền Nam phát động phong trào “Năm xung phong” là: Xung phong tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch; Xung phong tòng quân và tham gia du kích chiến tranh; Xung phong đi dân công và thanh niên xung phong phục vụ tiền tuyến; Xung phong đấu tranh chính trị và chống bắt lính; Xung phong sản xuất nông nghiệp trong nông hội.
Ngày 21/6/1965, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 71/TTg-CN về thành lập các Đội Thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước.
Ngay sau đó đã có 140.000 nam, nữ cán bộ, đội viên Thanh niên xung phong gia nhập 170 đội và 50 đại đội trực thuộc với quyết tâm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Ở miền Nam, từ ngày 17 đến 26/3/1965, Đại hội Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng miền Nam lần thứ nhất đã đề ra phương hướng hoạt động cho phong trào thanh niên. Ngày 20/4/1965, đơn vị Thanh niên xung phong Giải phóng miền Nam đầu tiên được thành lập, bước đầu có quân số 108 cán bộ, đội viên; tiếp tục phát triển thành Tổng đội Thanh niên xung phong Giải phóng miền Nam với quân số gần 5.000 người để phục vụ các Sư đoàn bộ đội chủ lực và làm nhiệm vụ hậu cần cho quân giải phóng ở miền Đông Nam Bộ; đồng thời thành lập các đơn vị Thanh niên xung phong tập trung với gần 5.000 người phục vụ bộ đội chủ lực ở khu, tỉnh; nhiều nơi cũng đã phát triển Thanh niên xung phong huyện, xã (Thanh niên xung phong cơ sở).
Sau một thời gian xây dựng, Thanh niên xung phong giải phóng miền Nam đã có lực lượng hùng hậu với 45.000 nam, nữ cán bộ, đội viên phục vụ ở các chiến trường.
Ngã ba Đồng Lộc, nơi tạo nên huyền thoại bi tráng về 10 nữ TNXP (Ảnh tư liệu)
Những chiến công to lớn trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Lực lượng Thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước của cả nước từ năm 1965-1975 có trên 271.000 đội viên đã có mặt trên tất cả các chiến trường, các địa bàn trọng điểm của cả nước để làm các nhiệm vụ: Mở đường, bảo đảm giao thông; phục vụ chiến đấu, tham gia chiến đấu; tháo gỡ bom mìn; cáng tải thương binh, tử sĩ; vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, hậu cần; thu dọn chiến trường;..
Đây là lực lượng luôn luôn kề vai sát cánh cùng với bộ đội, trực tiếp đảm đương các nhiệm vụ từ hậu phương đến tiền tuyến, từ Bắc đến Nam, vượt qua những khó khăn gian khổ, nguy hiểm trên các chiến trường để góp phần quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi của dân tộc.
Tại miền Bắc, với 220.000 đội viên nam, nữ Thanh niên xung phong làm nhiệm vụ ở Bộ Giao thông vận tải, Bộ Quốc phòng, Bộ Lâm nghiệp và các địa phương…đã có mặt trên khắp mọi tuyến đường ra tuyền tuyến, hăng hái mở những con đường chiến lược, bảo đảm giao thông thông suốt, sẵn sàng có mặt và hy sinh anh dũng ở những trọng điểm địch đánh phá ác liệt để san lấp hố bom, trực chiến, sửa chữa cầu đường, bảo đảm mạch máu giao thông thông suốt trong mọi tình huống.
Những hành động dũng cảm, hy sinh quên mình của Thanh niên xung phong đã được ghi vào sử sách như: 60 cán bộ, chiến sĩ Đại đội 915 dũng cảm hy sinh để bảo đảm hàng quân sự ở ga Lưu Xá (Thái Nguyên); Cán bộ, chiến sĩ Đại đội 895 – Đội 89 (Thái Bình) xông vào cứu đoàn tàu quân sự bị địch đánh phá ở Ga Gôi (Nam Định) năm 1966, có 23 người hy sinh và 256 người bị thương, bị nhiễm độc; 13 nữ chiến sĩ Đại đội 873 Đội 87 hy sinh khi làm nhiệm vụ bảo đảm an toàn cho đoàn tàu quân sự tại núi Nấp (Thanh Hóa); cán bộ, chiến sĩ Đại đội 317, Đội 65 đã kiên trì bám trụ ở trọng điểm giao thông Truông Bồn – Nghệ An (có 13 cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh); Sự hy sinh quên mình của 10 nữ chiến sĩ thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc năm 1968.
Đặc biệt, trên hệ thống đường Trường Sơn lịch sử, 46.000 Thanh niên xung phong làm nhiệm vụ ở tất cả 5 tuyến trục dọc và 21 tuyến trục ngang, điển hình là các con đường 12, 15A, 15B, đường 20 Quyết Thắng, đường 10 (20/7) Đông Trường Sơn… và các trọng điểm phà Long Đại, phà Xuân Sơn. Thanh niên xung phong đã bám trụ tới gần chục năm dòng rã cùng với bộ đội, công nhân giao thông và nhân dân địa phương để giữ vững mạch máu giao thông chủ đạo cho chiến trường miền Nam.
Ở đường 20 Quyết Thắng, con đường nổi tiếng ác liệt của hệ thống đường Trường Sơn, có nhiều đơn vị Thanh niên xung phong làm nhiệm vụ, trong đó có đơn vị “C5 gang thép – đơn vị cảm tử” – Đại đội 5 Thanh niên xung phong Hà Nam đã bám trụ, chốt giữ suốt từ năm 1965 đến năm 1970 ở Cua chữ A, Ngầm Ta Lê và Đèo Phu La Nhích để chiến đấu 350 ngày đêm với máy bay Mỹ đánh phá, trong đó có 969 trận B52 rải thảm, 2000 trận máy bay cường kích, với 300.000 quả bom các loại; C5 chỉ với 250 cán bộ, chiến sĩ thì có 68 liệt sĩ, 72 thương binh và có nữ anh hùng liệt sĩ phá bom Nguyễn Thị Vân Liệu.
Tại miền Nam, lực lượng gần 45.000 Thanh niên xung phong đã kề vai sát cánh cùng bộ đội trên khắp các chiến trường, các địa bàn trọng điểm, ác liệt như: Miền Đông Nam Bộ; miền Tây Nam Bộ, Tây Ninh; đường 1C “Gang thép - lịch sử”; Chiến dịch Phước Long – Sông Bé; Núi Thành (Quảng Nam); chiến dịch Quảng Đà và các chiến dịch khác ở Liên khu 5…
Chỉ riêng ở tuyến đường 1C, Thanh niên xung phong Liên phân đội I đã suốt 9 năm hoạt động dũng cảm, gan dạ chiến đấu, vượt qua mưa bom bão đạn của địch để vận chuyển 10.000 tấn quân trang, vũ khí; tiếp nhận đưa về đất Mũi 1 vạn quân; phối hợp cùng bộ đội bắn rơi 100 máy bay, diệt 50 xe tăng và hàng ngàn tên địch, giữ vững đường huyết mạch từ khu 9 về Trung ương Cục miền Nam.
Thanh niên xung phong cả nước đã mở được 102 con đường chiến lược với tổng chiều dài 4130 km, vận chuyển 10 vạn tấn vũ khí, đạn dược, lương thực cho chiến trường; trực chiến, chốt giữ, bảo đảm 3.000 trọng điểm giao thông quan trọng thường xuyên bị địch đánh phá ác liệt; san lấp trên 100.000 hố bom; đào 1.135 km hầm hào, xây dựng 8 bệnh viện dã chiến và 272 kho tàng; phá, gỡ thu gom trên 100.000 quả bom các loại; bắn rơi 15 máy bay Mỹ; bắt sống 13 phi công và gần 1.000 tên địch (trong đó có 286 lính Mỹ), phá hủy 20 xe tăng và xe bọc thép, phục vụ bộ đội 1.000 trận đánh; trực tiếp chiến đấu 40 trận; bổ sung 16.000 người sang quân đội; cáng tải, chăm sóc 2.077 thương binh, tử sĩ; đưa 18.000 lượt bộ đội qua sông. Thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước có 6.051 người hy sinh; 42.455 người bị thương, 18.000 người và con đẻ bị nhiễm chất độc da cam.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc, lực lượng Thanh niên xung phong đã được Đảng, Nhà nước quan tâm, tặng thưởng: Huân chương Thành đồng Tổ quốc hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Hồ Chí Minh, Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tặng bức Trướng ghi dòng chữ “Thanh niên xung phong chiến đấu dũng cảm, lao động sáng tạo, lập công suất sắc”, Huân chương Sao Vàng; 42 tập thể và 40 cá nhân đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 28.000 cán bộ, đội viên được tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến; Huân, Huy chương giải phóng, Huân chương chiến công, Huân chương Lao động,…
Thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước là lực lượng xung kích của Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh, thực hiện sáng tạo bốn câu thơ của Bác Hồ dạy, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát huy truyền thống của thế hệ Thanh niên xung phong chống Pháp, lập nên nhiều chiến công xuất sắc, vẻ vang của thế hệ Thanh niên thời đại Hồ Chí Minh, thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nguyễn Cao Vãng (Nguyên Phó Chủ tịch Hội Cựu TNXP Việt Nam)
1 Di tích lịch sử Nà Tu, cấp quốc gia – 1996
2. Theo Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Phân đội 312 và tặng 4 câu thơ trên là ngày 20/3/1951.