Truyền thống dân tộc - mạch nguồn hình thành và nuôi dưỡng cốt cách, trí tuệ và bản lĩnh đối ngoại, ngoại giao của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Truyền thống đối ngoại và ngoại giao của dân tộc Việt Nam là một di sản quý báu, được hình thành và phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử. Những đặc điểm nổi bật như độc lập tự chủ, khôn khéo linh hoạt, nhân nghĩa hòa hiếu, đoàn kết hợp tác và kiên trì bền bỉ đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và phát triển đất nước.
Truyền thống độc lập tự chủ được thể hiện xuyên suốt trong lịch sử đối ngoại của Việt Nam. Ngay từ thời kỳ đầu dựng nước, các vua Hùng đã xây dựng nền móng cho một quốc gia độc lập. Tinh thần này được tiếp nối qua các triều đại phong kiến, thể hiện rõ nét trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và trong các cuộc đàm phán ngoại giao. Bên cạnh tinh thần độc lập tự chủ, ngoại giao Việt Nam còn được biết đến với sự khôn khéo và linh hoạt. Điều này thể hiện qua việc biết “dĩ nhược thắng cường” (lấy yếu thắng mạnh) và “tùy cơ ứng biến” trong quan hệ với các nước lớn. Hơn nữa, truyền thống ngoại giao Việt Nam luôn đề cao tinh thần nhân nghĩa và hòa hiếu. Điều này không chỉ thể hiện đạo lý của dân tộc mà còn là một chiến lược khôn ngoan trong quan hệ quốc tế. Truyền thống đoàn kết nội bộ và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, kiên trì và bền bỉ, thể hiện qua khả năng đàm phán lâu dài và giải quyết các vấn đề phức tạp cũng là một đặc điểm quan trọng của đối ngoại và ngoại giao Việt Nam.
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh - kho trí tuệ soi sáng con đường đi lên của dân tộc, được tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng kế thừa và phát triển
Kế thừa và phát triển truyền thống đối ngoại và ngoại giao của dân tộc, trên cơ sở tiếp thu tinh hoa ngoại giao thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc Việt Nam một di sản quý báu về đường lối và sách lược, đóng vai trò nền tảng trong việc hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại của đất nước.
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh đề cao tinh thần hòa bình, hữu nghị và hợp tác quốc tế. Người từng nói “Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Điều này thể hiện thiện chí và mong muốn xây dựng quan hệ hòa bình, hữu nghị với các nước trên thế giới. Hồ Chủ tịch cũng nhấn mạnh rằng “Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới” và “Đoàn kết quốc tế không chỉ là một tình cảm mà còn là một nhiệm vụ”, điều đó cho thấy Người luôn chú ý đến việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trò của ngoại giao nhân dân và ngoại giao văn hóa. Người cho rằng: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” và “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Hồ Chí Minh luôn chủ trương linh hoạt và sáng tạo trong ngoại giao. Người từng nói: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” (Lấy cái không thay đổi để ứng phó với vạn điều thay đổi). Điều này thể hiện qua việc Người khéo léo vận dụng các phương pháp ngoại giao khác nhau, tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể.
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc giữ vững nguyên tắc nhưng linh hoạt về sách lược. Người dạy: “Càng khó khăn thì càng phải kiên quyết, càng phải sáng suốt”. Điều này đã được thể hiện qua cách Người xử lý các vấn đề ngoại giao phức tạp, vừa kiên định lập trường, vừa mềm dẻo trong cách thức. Hồ Chí Minh luôn đặt lợi ích dân tộc và nhân loại tiến bộ lên hàng đầu trong hoạt động ngoại giao. Người khẳng định: “Nước Việt Nam là một bộ phận của thế giới, mọi việc ở thế giới đều có quan hệ với Việt Nam”.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã kế thừa truyền thống đối ngoại của dân tộc và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, góp phần cùng các thế hệ tiền bối làm rạng danh non sông, đất nước Việt Nam
Trường phái đối ngoại và ngoại giao “Cây tre Việt Nam" với nội dung chủ yếu là “Gốc vững, Thân chắc, Cành uyển chuyển” không phải được hình thành một cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của quá trình nghiên cứu, suy ngẫm và đúc kết kinh nghiệm lâu dài của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Trải qua các vị trí lãnh đạo trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, Ông đã có cơ hội tiếp xúc, học hỏi và đúc kết những bài học quý báu về đối ngoại và ngoại giao. Từ những bài học lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn từ công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chọn hình ảnh Cây tre làm biểu tượng cho trường phái đối ngoại, ngoại giao của Việt Nam với những ý nghĩa sâu sắc, đó là: (i) Sức sống mãnh liệt và khả năng thích ứng cao, có khả năng ứng phó linh hoạt với các tình huống phức tạp, thích nghi nhanh chóng với bối cảnh quốc tế luôn thay đổi. (ii) - Kiên định và bền bỉ, giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế, luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết. (iii) Đoàn kết và hợp tác, tăng cường đoàn kết nội bộ và đoàn kết quốc tế, mở rộng và đa dạng hóa quan hệ hợp tác với các nước. (iv) Có khả năng phục hồi nhanh chóng sau các thách thức và khủng hoảng, không ngừng đổi mới, sáng tạo trong hoạt động đối ngoại.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những chỉ đạo quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện chính sách đối ngoại, bao gồm xác định rõ mục tiêu và nhiệm vụ đối ngoại trong từng giai đoạn, đưa ra các quyết sách quan trọng về hội nhập quốc tế, chỉ đạo xử lý và hóa giải có hiệu quả các vấn đề quan hệ quốc tế phức tạp.
Dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam được nâng cao đáng kể. Việt Nam đã trở thành thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2020-2021, đảm nhận thành công vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 và tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế quan trọng.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ với các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là việc nâng cấp và thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với nhiều cường quốc. Trong số 7 quốc gia đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam hiện nay, có 6 mối quan hệ được thiết lập trong thời kỳ lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Với Trung Quốc, trên cơ sở tiếp tục thực hiện quan hệ đối tác chiến lược toàn diện đã được thiết lập từ năm 2008, hai nước đã tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực, đồng thời xử lý các vấn đề nhạy cảm một cách thận trọng và xây dựng. Với Liên bang Nga, năm 2012, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực như năng lượng, quốc phòng và giáo dục, thể hiện mối quan hệ truyền thống và tin cậy giữa hai nước. Tổng Bí thư đã quyết định nâng cấp quan hệ với Ấn Độ lên đối tác chiến lược toàn diện năm 2016, mở ra nhiều cơ hội hợp tác mới, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ và an ninh biển. Dấu ấn của Tổng Bí thư còn thể hiện trong việc nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Hàn Quốc năm 2022, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ song phương, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác kinh tế, văn hóa và giao lưu nhân dân. Việc nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ lên đối tác chiến lược toàn diện năm 2023 là một bước ngoặt quan trọng, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Tổng Bí thư trong việc cân bằng quan hệ với các cường quốc. Điều này mở ra nhiều cơ hội hợp tác trong các lĩnh vực như công nghệ cao, đổi mới sáng tạo và ứng phó với biến đổi khí hậu. Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Nhật Bản đã được thiết lập năm 2023, tạo động lực mới cho hợp tác kinh tế, đầu tư và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc nâng cấp quan hệ với Australia lên đối tác chiến lược toàn diện năm 2024 là bước tiến mới nhất trong chiến lược ngoại giao đa dạng hóa, đa phương hóa của Việt Nam, mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực như giáo dục, khoa học công nghệ và an ninh khu vực.
Thông qua việc thiết lập và nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, Việt Nam đã khéo léo cân bằng quan hệ với các cường quốc, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời mở rộng không gian địa - chiến lược, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và bảo vệ lợi ích quốc gia trong bối cảnh quốc tế phức tạp, thực hiện đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ đối ngoại, tăng cường vị thế và tiếng nói trên trường quốc tế. Trường phái đối ngoại, ngoại giao “Cây tre Việt Nam” cũng đóng góp tích cực vào khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực, góp phần duy trì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực Đông Nam Á, thúc đẩy hợp tác quốc tế trong giải quyết các vấn đề toàn cầu, chia sẻ kinh nghiệm phát triển với các nước đang phát triển khác.
Nếu coi đối nội và đối ngoại là hai cánh của một con chim, thì con chim ấy có cất cánh bay cao và bay xa hay không là nhờ vào sức mạnh hợp lực và uyển chuyển của đôi cánh này. Hồ Chủ tịch đã từng nói “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to thì tiếng mới lớn”. Hiểu như vậy để thấy, di sản đối ngoại, ngoại giao mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại còn là minh chứng về công lao của Ông trong việc lãnh đạo, chỉ đạo để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xứng danh là một trong những nhà lãnh đạo kiệt xuất của dân tộc, một tấm gương sáng người về đạo đức cách mạng, một nhân cách vĩ đại được nhân dân Việt Nam và bạn bè thế giới kính trọng, nể phục.
TS. Đào Ngọc Báu
Viện trưởng Viện Quan hệ quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh