Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng được xem là lớn nhất trong toàn bộ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã có trên 400 bài viết, bài nói về đoàn kết, hơn 2.000 lần Hồ Chí Minh nhắc tới cụm từ “đoàn kết” và 80 lần nhắc tới cụm từ “đại đoàn kết”
Hồ Chí Minh và tư tưởng đại đoàn kết dân tộc
Trong bài nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt toàn quốc ngày 10/01/1955, Người giải thích: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây[1]”.
Tư tưởng về đại đoàn kết tiếp tục được Hồ Chí Minh cụ thể hóa trong các cụm từ như: “đại đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết dân tộc”, “toàn dân tộc ta đoàn kết”. Tuy cách diễn đạt có thể khác nhau, nhưng nội hàm của các khái niệm trên đều thống nhất khi khẳng định lực lượng của khối đại đoàn kết là của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy, những nội dung cốt lõi trong nội dung đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đoàn kết mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, dù sống trong nước hay định cư ở nước ngoài, đoàn kết tôn giáo, vì mục tiêu chung là vì lợi ích cao nhất của Tổ quốc và nhân dân.
Đối với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng có ý nghĩa chiến lược cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Theo Người, muốn cách mạng thành công thì phải tập hợp được sức mạnh vĩ đại của các tầng lớp nhân dân, cần có những phương pháp tập hợp lực lượng phù hợp trong từng giai đoạn cách mạng khác nhau, với từng đối tượng khác nhau.
Một năm sau khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng sau 30 năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, ngày 01/02/1942, Người đã viết bài “Nên học sử ta” đăng trên báo “Việt Nam độc lập”, trong đó có đoạn: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi dưới ngọn cờ Việt Minh để đánh đuổi Tây - Nhật, khôi phục lại độc lập, tự do[2]”.
Bác Hồ với nông dân xã Tân Phong, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc, năm 1956 (Ảnh tư liệu)
Trong Lời kêu gọi trong buổi lễ mừng Quốc khánh 02/9/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng của đại đoàn kết: “…Đoàn kết là một lực lượng vô địch. Lực lượng đoàn kết đã giúp Cách mạng tháng Tám thành công. Lực lượng đoàn kết đã giúp kháng chiến thắng lợi. Lực lượng đoàn kết sẽ động viên nhân dân ta từ Bắc đến Nam đấu tranh để thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước[3]”.
Ngày 19/4/1946, trong Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số Miền Nam tại Pleiku, Chỉ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tất cả các dân tộc ở Việt Nam đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Sở dĩ trước kia các dân tộc xa cách nhau vì thiếu giây liên lạc và vì có kẻ chia rẽ. Ngày nay nước Việt Nam là của chung tất cả mọi người: “Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non…[4]”.
Tư tưởng này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại rất nhiều lần, trong nhiều bài viết, bài nói khác nhau. Ngày 30/5/1946, nói chuyện với đồng bào Hà Nội trong cuộc mít-tinh tiễn Người đi thăm nước Pháp với tư cách là thượng khách của nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã một lần nữa khẳng định lại tư tưởng nhất quán này và khẳng định việc nước là việc chung nên “mỗi một người con Rồng cháu Tiên, bất kỳ già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý tiện đều phải gánh một phần[5]”.
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà tư tưởng với những tư duy mới, đặc sắc về đoàn kết, Người còn là một nhà thực hành lớn. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rất rõ nét trong Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng. Khi về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp tất cả các giới đồng bào không phân biệt chính kiến, dân tộc, tôn giáo v.v… miễn là đều có chung mục đích đánh đuổi thực dân, phát xít xâm lược, giành độc lập tự do cho Tổ quốc, mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Bằng tư tưởng và đường lối đại đoàn kết dân tộc đúng đắn, các tầng lớp nhân dân đã gạt bỏ những bất đồng, dị biệt để cùng mưu cầu lợi ích tối cao cho dân tộc. Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng vĩ đại của toàn dân bởi đã thu hút được đại bộ phận các tầng lớp nhân dân tham gia từ các vị đại quan của triều đình, các nhân sỹ, trí thức, các đại điền chủ đến những người lao động bình dân. Khi thực dân Pháp đô hộ nước ta, ngoài chia để trị, người Pháp còn lợi dụng và chia rẽ các tôn giáo nhằm làm cho đồng bào các dân tộc tôn giáo mất đoàn kết, thù hằn lẫn nhau.
Ngay sau khi ra mắt Chính phủ Lâm thời, sáng 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, tại cuộc họp này Người đã nêu ra 06 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó có nhiệm vụ rất quan trọng là xóa bỏ phân biệt đối xử về tôn giáo: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và Lương Giáo đoàn kết[6]”.
Chính phủ Liên hiệp kháng chiến Việt Nam được thành lập ngày 02/3/1946 sau cuộc bầu cử Quốc hội khóa I ngày 06/01/1946 đã quy tụ rất nhiều những trí thức, nhiều vị bộ trưởng với các xu hướng chính trị khác nhau. Vì đại đoàn kết dân tộc, các nhà lãnh đạo Việt Minh - những người có công lao to lớn trong đấu tranh giành độc lập đã tự rút lui để nhường ghế cho người của các đảng phái khác, cho các nhân sỹ, trí thức ngoài Đảng.
Có thể khẳng định rằng, đại đoàn kết là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của tư tưởng Hồ Chí Minh bởi Hồ Chí Minh thấu hiểu rằng đoàn kết thì thắng mà chia rẽ thì chết.
Lời kết thúc buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC[7]”.
Trung Kiên (Còn tiếp)
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.7, tr. 438
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr. 217
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 49
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 217
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 240-241
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 09
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 183