Ngày 30/4/1975, dân tộc Việt Nam kết thúc cuộc chiến đấu kéo dài 30 năm (1945-1975) bảo vệ nền độc lập dân tộc và hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, non sông thu về một mối. Cuộc kháng chiến chống Mỹ , cứu nước đã lùi xa 49 năm, nhưng những chi tiết quanh sự kiện ngày 30/4 lịch sử đến nay vẫn còn những ý kiến khác nhau. Bài viết góp phần làm rõ hơn sự kiện lịch sử trong ngày 30/4 trọng đại đó
Lá cờ cắm trên nóc dinh Độc Lập ngày 30/4/1975
Gần đây, trong một số bài viết viết rằng trưa 30/4/1975, cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc dinh Độc Lập. Một clip trên mạng cũng đã dẫn lại lời của phát thanh viên Đài Tiếng nói Việt Nam nói rằng trưa ngày 30/4/1975, quân giải phóng dã cắm lên nóc Dinh Độc Lập lá cờ đỏ sao vàng.
Đó là chi tiết chưa chính xác.
Lá cờ được quân giải phóng cắm trên nóc dinh Độc Lập trưa 30/4/1975 là cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Lá cờ này có màu nửa đỏ, nửa xanh dương và có ngôi sao vàng ở giữa.
Ngày 20/12/1960 tại Tây Ninh, đại biểu các giai cấp, dân tộc, tôn giáo và các đảng phái đã họp Đại hội và quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, một trí thức yêu nước nổi tiếng khi ấy đang bị giam lỏng ở Tuy Hoà (Phú Uyên) được suy cử giữ cương vị Chủ tịch Mặt trận. Sau đó, lực lượng kháng chiến đã lập kế hoạch giải thoát Luật sư thành công và đưa về căn cứ. Phía Chính quyền Sài Gòn và Mỹ thường dùng từ “Việt Cộng” hoặc “VC” để gọi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Tháng 6/1969, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập, tiếp tục lấy lá cờ này làm quốc kỳ của Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Hai tuyên bố của ông Dương Văn Minh vào sáng ngày 30/4/1975
Hiện nay, hầu như ai cũng biết rằng trưa 30/4/1975, trên Đài Phát thanh Sài Gòn, Tổng thống Việt Nam Cộng hoà (tên gọi theo danh từ) Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam: “Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh (có chữ Đại tướng chứ không như một số bài viết không có chữ “đại tướng”), Tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam[1]”.
Tuy nhiên, đó là tuyên bố thứ hai của ông Dương Văn Minh, trước đó vào hồi 9h30, trên Đài Phát thanh Sài Gòn đã phát đi lời tuyên bố của ông Dương Văn Minh: “Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa hãy bình tĩnh, ngưng nổ súng và ở đâu (thì) ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng. Chúng tôi ở đây chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận về lễ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích của đồng bào[2]”.
Ông Dương Văn Minh (mặc áo đen ngồi nhìn lên) đọc tuyên bố đầu hàng tại phòng thu của Đài Phát thanh Sài Gòn trưa ngày 30/4/1975 (Ảnh tư liệu)
Tuyên bố của Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà Vũ Văn Mẫu
Sau tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh, Thủ tướng cuối cùng của chính quyền Sài Gòn, luật sư Vũ Văn Mẫu đã nói: “Trong tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc, tôi, giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào vui vẻ chào mừng ngày hòa bình của dân tộc và trở lại sinh hoạt bình thường. Các nhân viên của các cơ quan hành chính quay trở về vị trí cũ theo sự hướng dẫn của cách mạng[3]”.
Theo dự kiến, trưa 30/4/1975, Chính phủ Vũ Văn Mẫu sẽ trình diện Tổng thống Dương Văn Minh và trong buổi trình diện này có một bài diễn văn đã được chuẩn bị sẵn để đọc trong buổi ra mắt. Tuy nhiên, trưa hôm đó, quân giải phóng vào dinh nên bài diễn văn bị bỏ dở. Thế nhưng, tinh thần của bài diễn văn ấy thể hiện rõ tinh thần dân tộc của những người trí thức khi ấy: “Chánh phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã từng nhiều lần kêu gọi phía Việt Nam Cộng hòa có một Chánh phủ hòa bình, với các nhân vật không dính líu với chế độ Nguyễn Văn Thiệu, để tái lập thương nghị. Chính phủ hòa bình nay giờ đây đã được thành lập. Thành phần thứ ba đã đứng lên để đóng góp cho sứ mạng hòa bình, cho sự nghiệp hòa giải và hòa hợp dân tộc. Đồng bào toàn quốc đang trông chờ từng ngày, từng giờ, từng phút để máu và nước mắt dân tộc ngưng chảy vì chiến cuộc. Chúng tôi thiết nghĩ rằng, những người anh em phía bên kia chắc cũng không vui sướng trước cảnh súng đao và các tang tóc điêu tàn của đồng bào ruột thịt. Chúng tôi tin tưởng rằng mọi vấn đề dù khó khăn đến đâu, cũng có thể được giải quyết trên bàn hội nghị với tinh thần hòa giải, hòa hợp và tình huynh đệ giữa những người con cùng một mẹ Việt Nam. Tại sao chúng ta còn cần phải bắn giết lẫn nhau, gây thêm tang tóc, đau thương, cùng cực cho nhau, khi chính sách Nguyễn Văn Thiệu đã cáo chung và các người lãnh đạo chế độ này đã đưa nhau xa lìa tổ quốc, nếu không muốn nói là chạy trốn?[4]”.
Bản chụp màn hình tuyên bố của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu trưa 30/4/1975. Nguồn: Phim tài liệu “Chuyện kể 30 tháng 4: nhân chứng thứ ba
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam là Chính phủ tồn tại cho tới ngày hiệp thương thống nhất đất nước về mặt Nhà nước
Tháng 6/1969, tại Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập[5].
Thành lập Chính phủ CMLTCHMN Việt Nam (Ảnh tư liệu)
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ lãnh thổ miền Nam theo Hiệp định Geneva. Vậy nên, ngày 17/4/1975, khi Trung Quốc đánh chiếm đảo Hoàng Sa của Việt Nam thì ngày 20/4/1975, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra “Tuyên bố 3 điểm: khẳng định chủ quyền của dân tộc Việt Nam đối với Hoàng sa, mọi tranh chấp về biển đảo, lãnh thổ sẽ giải quyết bằng thương lượng, sẵn sàng cùng với các bên liên quan bàn bạc[6]”.
Sau khi Tổng thống chính quyền Sài Gòn Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam và tuyên bố giải tán hoàn toàn chính quyền từ trung ương đến địa phương và giao lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam thì Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam là chính phủ hợp pháp của toàn bộ vùng lãnh thổ này.
Từ ngày 15 đến 21/11/1975, hội nghị hiệp thương chính trị được tổ chức để tiến tới thống nhất về mặt nhà nước. Đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông Trường Chinh đứng đầu, đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do ông Phạm Hùng đứng đầu. Hội nghị đã tán thành tổ chức bầu cử Quốc hội thống nhất.
Ngày 25/4/1976, tổng tuyển cử trong cả nước được tổ chức, bầu ra 492 đại biểu của Quốc hội Việt Nam thống nhất. Từ ngày 24/6 đến ngày 02/7/1976, Quốc hội họp phiên đầu tiên, đặt tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, xác định Thủ đô, bầu chính phủ, đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đây, Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam chính thức hợp nhất với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để ra đời Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của nước Việt Nam thống nhất.
Khai mạc Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất (Ảnh tư liệu)
Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là sự kiện vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, vì vậy, những chi tiết liên quan đến sự kiện giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sẽ giúp mọi người hiểu rõ hơn về các sự kiện lịch sử trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói riêng và tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung.
Hồng Phúc
[1] Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Thành phố hồ Chí Minh (1930-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr. 913-914
[2] Nhiều tác giả: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, tập II, 1954-1975, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 980
[3] https://tuoitre.vn/giua-long-dan-toc-435812.htm
[4] Trung tâm lưu trữ Quốc gia II: Về đại thắng mùa Xuân năm 1975 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 345
[5] Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 2 (1955-1976), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.428, 428.
[6] Nguyễn Thị Bình: Gia đình, bạn bè, đất nước, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2012, tr. 147