Những thắng lợi quan trọng trước và trong chiến dịch Tây Nguyên
* Từ ngày 25/2/1975 đến ngày 09/3/1975
Ta bắt đầu các hoạt động nhằm tiến công có tính chất nghi binh chiến dịch nhằm để địch bị bất ngờ về hướng chiến dịch chủ yếu của ta và để phân tán lực lượng địch.
Trong các ngày từ 28/2 đến 01/3/1975, “các đơn vị của Sư đoàn 968 lần lượt tiêu diệt các vị trí đối phương trên đường 19 (tây Plâyku)…, đồng thời dùng pháo binh bắn phá sân bay Cù Hanh, thị xã Plâyku. Ở hướng Kon Tum, ta mở các trận đánh nhỏ, huy động dân công rầm rộ làm đường, làm trận địa pháo, đồng thời sử dụng một bộ phận lực lượng khác đánh đối phương trên đường số 14 ở đoạn giữa Kon Tum và Plâyku”[1].
Trong hai ngày 07/3 và 08/3, quân ta diệt cứ điểm Chư Xê (Bắc Buôn Hồ) trên đường số 14 và đánh chiếm chi khu quân sự Thuần Mẫn. Tiếp đó, “Ngày 9-3, Sư đoàn 10 nổ súng đánh chiếm quận lỵ Đức Lập. Trên hướng bắc, ta tiêu diệt quận lỵ Thanh An, áp sát, uy hiếp thị xã Plâycu”[2].
Đến lúc này, thế chiến lược bao vây, chia cắt, cô lập Buôn Ma Thuột đã được cài xong. Buôn Ma Thuột đã như “cá nằm trên thớt”.
* Từ ngày 10/3/1975 đến ngày 13/3/1975
Sau những kết quả quan trọng trong bước tiến công nghi binh, khoảng 2 giờ sáng ngày 10/3/1975, Trung đoàn 198 đặc công đánh vào 3 vị trí là sân bay Hòa Bình, sân bay thị xã và khu kho Mai Hắc Đế. Pháo binh đánh các cơ quan chỉ huy và một vài khu doanh trại như Sư đoàn 23, Sở chỉ huy tiểu khu, khu doanh trại pháo binh, thiết giáp của địch trong thị xã. Trong đó, mục tiêu Sư đoàn bộ 23 của địch là mục tiêu chủ yếu, then chốt.
Với khí thế tiến công mạnh mẽ, cách đánh sáng tạo, kết hợp giữa tiến công hiệp đồng binh chủng với các mũi luồn sâu, giữa tiến công và nổi dậy, giữa cách đánh áp đảo với bí mật, bất ngờ, trong ngày 10/3, hầu hết các mục tiêu quan trọng trong thị xã, trừ Sở Chỉ huy Sư đoàn 23 của địch, đều bị quân ta đánh chiếm.
Phương tiện củ địch bị quân giải phóng thu giữ trong trận đánh chiếm Chi khu Đức Lập (9/3/1975) (Ảnh tư liệu)
Trong tình thế đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định tập trung lực lượng nhanh chóng tiêu diệt Sở Chỉ huy Sư đoàn 23 và các mục tiêu còn lại trong thị xã, đồng thời tiêu diệt các căn cứ Bản Đôn, Chư Nga, Buôn Hồ, chặn địch tiếp viện từ bên ngoài, bố trí lực lượng sẵn sàng đánh quân địch phản kích. “Đúng 11 giờ ngày 11-3-1975, ngọn cờ chiến thắng của quân ta phấp phới bay trên nóc hầm chỉ huy của sư đoàn 23 ngụy”[3]. Trận Buôn Mê Thuột kết thúc thắng lợi.
Theo chỉ thị của Quân ủy Trung ương, quân giải phóng tiếp tục tiến công những mục tiêu còn lại. Ngày 12/3, quân giải phóng đánh chiếm khu trung tâm huấn luyện Sư đoàn 23, quận lỵ Buôn Hồ, điểm cao Chư Bao, ấp Đạt Lý. Ngày 13/3, đánh chiếm ấp Châu Sơn. Ngày 14/3, ta giải phóng Bản Đôn, đánh chiếm Chư M’ga. Đến đây, nhiệm vụ bước đầu của chiến dịch Tây Nguyên đã hoàn thành. Trong đó, chiến thắng Buôn Ma Thuột là một đòn choáng váng khiến quân ngụy hoang mang, mất tinh thần, tâm lý chiến suy sụp.
* Từ ngày 15/3/1975 đến ngày 24/3/1975
Sau khi ta giải phóng Buôn Ma Thuột, quân địch ở Tây Nguyên lâm vào thế bị bao vây, chia cắt; đồng thời cũng rất lúng túng, bị động khi phải đối phó với nhiều nơi trên chiến trường. Các lực lượng địch phản kích, tăng viện nhằm chiếm lại Buôn Ma Thuột đều bị đánh bại, buộc phải co về phòng ngự, ngăn chặn quân ta phát triển tiến công. Tuy nhiên, trước những thất bại nặng nề và sức mạnh tiến công mạnh mẽ trên chiến trường của ta, quân đội Sài Gòn buộc phải triển khai “rút lui chiến lược” từ Pleiku, Kon Tum, lấy quân đưa về giữ vùng đồng bằng ven biển. Quân ta đang từ thế trận đánh quân địch phản kích đã nhanh chóng hình thành thế trận tiến công.
Đêm 15/3, quân giải phóng đánh dứt điểm căn cứ 53 làm cho địch không còn chỗ dựa để phản kích vào Buôn Ma Thuột. Ngày 16/3, ta đánh vào Nông Trại, tiêu diệt hoàn toàn các lực lượng còn lại của của Trung đoàn 45 ngụy. Ngày 17/3, các đơn vị chủ lực quân giải phóng gồm nhiều mũi tiến về phía Đông và và phía Nam đường số 7 hình thành thế bao vây, chia cắt và chặn đứng quân địch rút chạy. Sáng 18/3, sau hai đợt tiến công, ta đã đánh chiếm xong Phú Bổn. Ngày 19 và 20/3, các đơn vị truy kích của ta đã khép chặt vòng vây địch ở Cheo Reo, Phú Túc. Gần như toàn bộ quân địch rút chạy từ Pleiku, Kon Tum về đây đã bị tiêu diệt.
Trong quá trình tiến công, ngày 18/3, Kon Tum được giải phóng; ngày 19/3, Pleiku được giải phóng. Tại Quảng Đức, một tỉnh ở phía Nam Tây Nguyên, các lực lượng vũ trang địa phương cùng với nhân dân đã chớp thời cơ chiến lược tiến vào thị xã và nhanh chóng giải phóng thị xã Gia Nghĩa ngày 24/3.
Như vậy, “trong 10 ngày phát triển tiến công sau khi giải phóng Buôn Mê Thuột, quân và dân Tây Nguyên đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Phú Bổn, Đắc Lắc, Quảng Đức. Hầu hết lực lượng địch trên phòng tuyến Tây Nguyên đã bị tiêu diệt trong khi rút lui trên các đường số 7, số 19, số 21”[4].
* Từ ngày 25/3/1975 đến ngày 3/4/1975
Trước thất bại nặng nề trên chiến trường Tây Nguyên và những nơi khác, quân đội Sài Gòn hết sức hoảng hốt, chuyển sang phòng ngự bị động. Tại Mặt trận Tây Nguyên và các tỉnh đồng bằng như Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, chúng tập hợp lực lượng để bố trí phòng thủ vội vã hòng ngăn chặn ta phát triển tiến công xuống đồng bằng.
Tuy nhiên, thế tiến quân và nổi dậy như vũ bão của ta đã đánh sập mọi cố gắng trong vô vọng của quân ngụy. Ngày 25/3, quân ta giải phóng hoàn toàn khu vực Củng Sơn và quận Sơn Hòa, tạo điều kiện cho cuộc tiến công xuống vùng đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ và miền Đông Nam Bộ.
Đến lúc này, đà tiến công và nổi dậy của ta đã phát triển với sức mạnh và khí thế không thể ngăn cản. Ngày 28/3, giải phóng tỉnh Lâm Đồng. Ngày 31/3, ta tiêu diệt sư đoàn bộ binh số 22 của ngụy, giải phóng Bình Định. Ngày 01/4, giải phóng Tuy Hòa và thị xã Quy Nhơn. Thừa thắng, “ngay trong ngày 2-4, quân ta lập tức tiến thẳng xuống giải phóng thị xã Nha Trang. Sau đó, đến 12 giờ 30 ngày 3-4, quân ta lại giải phóng quân cảng Cam Ranh”[5].
Như vậy, sau một tháng liên tục tiến công (từ ngày 04/3 đến ngày 03/4/1975), chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi.
Quân giải phóng đánh chiếm Thị xã Buôn Ma Thuột, ngày 11/3/1975 (Ảnh tư liệu)
Kết quả và ý nghĩa lịch sử của chiến dịch Tây Nguyên
* Những kết quả chủ yếu
Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi. Ta đã tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2 Quân lực Việt Nam Cộng hòa, một bộ phận lực lượng dự bị chiến lược, toàn bộ lực địch ở Tây Nguyên và hai tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa.
Cụ thể, “ta đã tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2 – Quân khu 2 cùng một bộ phận cơ động chiến lược của quân đội Sài Gòn, diệt Sư đoàn 22, Sư đoàn 23, Lữ dù 3 và 8 liên đoàn biệt động quân, 1 liên đoàn công binh, 4 thiết đoàn, 10 tiểu đoàn pháo binh; đánh thiệt hại Sư đoàn 6 không quân, tiêu diệt và làm tan ra 7 tiểu khu, 26 chi khu, 50 tiểu đoàn, 51 đại đội bảo an và toàn bộ lực lượng cảnh sát, dân vệ, phòng vệ dân sự; giải phóng Tây Nguyên và các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ”[6].
* Ý nghĩa lịch sử
Chiến thắng Tây Nguyên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mở màn thắng lợi oanh liệt cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 và có ý nghĩa lịch sử to lớn:
Một là, đòn tiến công chiến lược trên chiến trường Tây Nguyên là một quá trình nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng và chỉ đạo quyết liệt của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương để mở đầu cho trận quyết chiến chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Xuyên suốt chiến dịch là liên tiếp những cuộc tiến công và nổi dậy khẩn trương, quyết liệt, đòi hỏi sự mưu trí, quả cảm, nghệ thuật tác chiến và sự táo bạo, thần tốc của các lực lượng trên chiến trường. Vì vậy, thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên thể hiện sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Đồng thời, những thắng lợi tiêu biểu trong chiến dịch đã thể hiện tuyệt vời tinh thần và ý chí, quyết tâm chiến đấu của quân và dân ta; thể hiện sự trưởng thành vượt bậc về trình độ tác chiến quy mô lớn và nghệ thuật quân sự của Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng.
Hai là, qua chiến dịch Tây Nguyên, ta đã tiêu diệt một lực lượng lớn quân đội Sài Gòn, ngay lúc chúng đang còn mạnh. Đó “là một đòn rất nặng làm cho chúng bị suy yếu nhanh chóng và nghiêm trọng, gây ảnh hưởng tai hại tức thì đến toàn bộ lực lượng vũ trang của chúng”[7]. Tổn thất về lực lượng cũng như địa bàn kiểm soát khiến cho quân đội Sài Gòn lâm vào bế tắc, làm suy sụp về tinh thần và ý chí chiến đấu cũng như sự thay đổi về so sánh lực lượng và thế trận chiến lược theo hướng có lợi cho ta. Qua chiến thắng này, ta có thêm nhiều kinh nghiệm cực kỳ quý giá trong tổ chức đánh lớn, tác chiến tập trung, tác chiến hiệp đồng binh chủng… Vì vậy, nó giúp ta mở ra những tiền đề vô cùng thuận lợi để tiếp tục đẩy cuộc Tổng tiến công phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng hơn.
Ba là, những thắng lợi quan trọng trong chiến dịch Tây Nguyên đã có tác dụng vô cùng lớn trong việc cổ vũ, động viên mạnh mẽ tinh thần, khí thế của quân và dân ta ở cả tiền tuyến lẫn hậu phương. Với thắng lợi then chốt này, quân và dân ta càng thêm quyết tâm chiến đấu và tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
[1] Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 – 1975, tập VIII: Toàn thắng (Xuất bản lần thứ hai), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tr.255
[2] Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng, (Phạm Chí Nhân thể hiện, xuất bản lần thứ năm), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr.186
[3] Trung tướng Hoàng Minh Thảo: Chiến dịch Tây Nguyên đại thắng, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1977, tr.99
[4] Từ Vân: Xuân 1975 một chiến công kỳ diệu, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1975, tr.38
[5] Trung tướng Hoàng Minh Thảo: Chiến dịch Tây Nguyên đại thắng, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1977, tr.137
[6] Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 – 1975, Tập VIII: Toàn thắng (Xuất bản lần thứ hai), Sđd, tr.310
[7] Trung tướng Hoàng Minh Thảo: Chiến dịch Tây Nguyên đại thắng, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1977, tr.138
Lê Thủ