Tây Bắc là vùng núi rừng thiên nhiên hùng vĩ, bao bọc lấy cuộc sống sinh hoạt gắn với nhiều nét văn hóa độc đáo của đồng bào các dân tộc phía Bắc Việt Nam. Một trong những gam màu nổi bật nhất trên bức tranh Tây Bắc chính là những lễ hội của đồng bào các dân tộc thiểu số, trong đó lễ hội Cầu an Bản Mường để lại nhiều dấn ấn đặc sắc.
Nghi thức Lễ Cầu an Bản Mường. Ảnh: Internet
Lễ hội Cầu an Bản Mường được tổ chức rất trọng thể, như biểu hiện tâm linh và nguyện vọng của cả cộng đồng bản mường, cầu mong những điều tốt đẹp cho mùa màng, sức khỏe và đời sống no đủ trong cả một năm. Lễ hội gắn với những nghi thức truyền thống, điển hình là tục giết trâu hiến sinh cầu và tạ thần linh, với những thủ tục cúng tế đại diện cho thần linh, các thế lực tự nhiên và con người…
Lễ hội thường được tổ chức vào cuối tháng Giêng, đầu tháng hai hằng năm trên những bãi rộng và phải đặt gần nguồn nước, đặc biệt là nguồn nước thiêng được cộng đồng giữ gìn và bảo vệ. Mỗi cộng đồng lại có cách thức tổ chức độc đáo riêng, phù hợp với đặc điểm từng khu vực. Như ở Mộc Châu, lễ hội được tiến hành ở đầu nguồn nước thuộc một bản được chọn (thường là bản Mòn). Người ta cho rằng đây là nguồn nước thiêng, gần rừng thiêng, nơi cư trú của thần thuồng luồng đầy uy lực. Còn đối với người Thái Mai Châu thì lễ hội lại được tổ chức ở bãi rộng gần đình như các lễ hội ở châu thổ, đồng bằng. Có nơi, người ta tổ chức lễ ở các miếu thờ thổ công, thổ địa của bản, của gia đình, ở vườn và ở đầu ruộng.
Lễ hội diễn ra hai hoặc ba ngày. Công đoạn chuẩn bị đã được thực hiện từ dịp tết Nguyên Đán. Nghi lễ cúng viếng cơ bản là hiến sinh trâu (nơi là một cặp trâu đực to, trắng - đen, nơi thì một con, nhiều nơi cúng cả gà, lợn). Ở Mộc Châu, trong lễ xên bản, xên mường, người ta hiến tế cặp trâu đen - trắng cở từ mười tuổi trở lên. Hai trâu, nhưng trâu trắng mới thực sự mang năng lượng thiêng để thành lễ vật tế thần (ở đây là thủy quái thuồng luồng, con ma to nhất dưới nước mà bà con thường gọi là phi ngược). Theo tục truyền thống thì hiến sinh một trâu mộng, cũng có nơi phổ biến hiến sinh hai trâu, là kết quả của việc cúng tế giữa nhiều mường, do đều tập trung đồ cúng tại bản Mòn.
Lễ hội có sự phân công rõ ràng trong việc tổ chức. Chịu trách nhiệm các công việc chung là a nha, còn người trực tiếp điều hành buổi lễ là thầy cúng (mo mường). Lễ hội như món ăn tinh thần của toàn thể đồng bào, cho nên từ già trẻ lớn bé, bất kể ai trong mường ngoài bản cũng đều có nghĩa vụ và quyền lợi tham gia đóng góp cho lễ hội. Lễ hội vì thế gắn kết cộng đồng như tập hợp của mọi công việc chung, của tinh thần chung và nguyện vọng chung của đồng bào.
Nghi lễ chính trong lễ hội là lễ giết trâu để hiến thế cho thần linh. Nghi thức giết trâu thường được tiến hành đơn giản, không quan trọng và hệ thống như nghi lễ đâm trâu, ăn trâu ở Tây Nguyên. Trước ngày hội chính thức, tức là khoảng 2-3 giờ chiều ngày hôm trước, người ta đã làm lễ giết trâu. Trước khi thịt trâu, ông mo mường và ông mò phăn (tức ông thầy chém, được dân mường chọn ra) làm lễ vái thần linh, tổ tiên rồi cầm dao nhọn làm động tác chém dữ (mang tính nghi lễ) vào cổ các con trâu dùng tế lễ, miệng thì thầm những câu như thần chú (thực ra, nhiều người cho rằng các ông chỉ nói lời kính báo với thần linh, tổ tiên: trâu tế thần đã sẵn, dân bản, dân mường đã thịt trâu dâng các vị rồi đây nhé, xin các vị về mà nhận lấy). Sau đó, các ông lui ra, dành chỗ cho các thanh niên khỏe mạnh vào chém trâu, thịt trâu...
Hoạt động văn nghệ trong Lễ hội. Ảnh: Internet
Bắt đầu ngày hội, người ta làm nhiều mâm cỗ cúng (mỗi mâm cỗ tượng trưng cho một bản lớn, xưa, có tạo bản đứng đầu, các bản nhỏ không được tượng trưng bằng mâm cỗ) đặt cạnh nguồn nước thiêng của mường. Đặc biệt, mâm cỗ của ông a nha, đặt ở giữa, dùng cúng tổ tiên (mâm cúng chính thức) phải đầy đủ các bộ phận của con trâu hiến tế (đầu, đùi, thân, móng, đuôi...) cùng tất cả các bộ phận của một con lợn. Những mâm còn lại của các bản, ngoài thịt trâu, cơm rượu... còn phải có gà vịt, đặt ở hai bên mâm cúng chính, dành để cúng các vị thần khác. Khi buổi lễ bắt đầu, mo mường quì trước các mâm cỗ, phía sau là a nha, tạo bản, dân mường quì lễ. Trong không khí trang nghiêm, linh thiêng, ông mo trang trọng, xuất thần đọc bài cúng đã thông thuộc, mời tổ tiên (ông cha bà cố nội ngoại tiếng Thái là Pao pu pang cải), thần đất (Chau đỉn), chủ nguồn nước (Chau nặm bo), thổ công thổ địa... về nhận lễ vật, dùng cỗ, vui vẻ với cộng đồng dân cư bản mường; đồng thời cầu mong tổ tiên thần linh ban phúc, phù trợ cho bản mường bình yên, làm ăn suôn sẻ, con người khỏe mạnh, ngô lúa sinh sôi, gia súc gia cầm đàn đàn, lớp lớp. Khấn xong, mo mường và các vị chức sắc cùng dân bản mường vái lạy tổ tiên và các vị thần. Trong lúc đó, mo mường ném hai quả trứng (một đỏ, một trắng) và một nắm cơm nhỏ xuống nguồn nước. Cuộc lễ kết thúc, mọi người bắt đầu vào cuộc ăn uống cộng cảm, vui chơi thể thao, văn nghệ... Cuộc ăn uống cộng cảm diễn ra hết sức vui nhưng đúng lễ nghi. Các ông mo mường, a nha, tạo bản... ăn làm phép ở mâm cỗ chính, rồi đi từng mâm; ở mỗi mâm các ông ăn một miếng thịt, uống một hớp rượu. Kế đó, cả bản mường ăn uống vui vẻ cho bằng hết các mâm, không được bỏ thừa hay đem về.
Để chuẩn bị cho các hoạt động vui chơi trong hội lễ, ngay từ sáng tinh mơ của ngày đầu tiên, bên cạnh vị trí cúng lễ (mặt bằng, có thể là bàn đá cạnh nguồn nước), người dân bản đã sửa sang, dọn dẹp một mặt bằng rộng, cách nơi hành lễ khoảng trên dưới 100m. Mọi hoạt động hội hè, trò chơi, văn nghệ, thể thao... đều được diễn ra nơi đây. Trời về chiều, trong tiếng trống, tiếng chiêng dìu dặt lúc khoan lúc nhặt, dân làng tổ chức xòe vòng, xòe đôi, xòe đơn thật hào hứng. Bên mâm rượu tập thể, những nam thanh nữ tú hát giỏi múa hay, nhanh nhẹn trong ứng đối vừa ăn uống, chọc ghẹo, vừa hát đối đáp giao duyên. Họ hát giới thiệu, khen ngợi nhau, bày tỏ chí hướng, tỏ lòng với nhau... trong men rượu, men tình... Bên cạnh đó, dăm bảy đôi nam nữ (thường là những đôi đã ngầm kết nhau, tổ chức múa sạp, thi bắn nỏ, bắn súng hỏa mai. Nhiều nơi còn có tục đi săn tập thể vào ngày kết thúc lễ hội. Dưới sự chỉ huy của một thợ săn giỏi nhất mường, được dân bản bầu lên, mọi người lao mình vào cuộc săn một cách hào hứng. Thú rừng săn được sẽ chia đều cho mọi người cũng như lũ chó tham gia cuộc săn... Cứ như thế cuộc vui kéo dài trong hai, ba ngày. Sau đó, bản nào về bản ấy. Bản nào giàu có, nhiều khả năng vật chất thì mời mo mường, a nha về bản mình, tiếp tục mổ lợn, giết gà tiệc tùng vui vẻ, hoặc tổ chức cầu an cho bản (xên bản).
Lễ hội Cầu an Bản Mường là một nét đẹp văn hóa của đồng bào các dân tộc Tây Bắc, dù hiện nay lễ hội đã có nhiều biến đổi, nhất là cách thức tổ chức, đã mang màu sắc giải trí nhiều hơn, các nghi thức tâm linh được tiến hành trang trọng nhưng đã lược bớt đôi phần cầu kỳ. Mặc dù vậy, giá trị cốt lõi của lễ hội vẫn duy trì được tính bền vững, thể hiện niềm tin, ý chí, tình cảm gắn kết các bản mường, hướng tới cuộc sống hạnh phúc, an bình.
Thành Trung