Tư bản Mỹ và thị trường Nhật Bản
Sau chiến tranh, Nhật có khoảng 1,5 triệu lính chết trận, khoảng 8 triệu thường dân chết hoặc bị thương. Hàng chục thành phố lớn bị tàn phá nặng nề và 2,5 triệu ngôi nhà đã bị hư hại nặng hoặc bị phá hủy hoàn toàn khiến 30% dân số Nhật Bản không có nhà ở. Tại thủ đô Tokyo, 65% khu vực dân cư bị phá hủy hoàn toàn và dân số từ 6,75 triệu giảm xuống còn khoảng 3 triệu.
Nước Nhật hoang tàn sau chiến tranh |
Về kinh tế, hầu hết các cơ sở sản xuất đều được chuyển sang sản xuất phục vụ chiến tranh và phần lớn bị phá hủy trong cuộc chiến. 6 triệu lính và dân thường Nhật Bản từ khắp các vùng chiến sự ở Thái Bình Dương quay trở về nước. Do đó, dù chiến tranh đã chấm dứt, người ta ước lượng rằng 10 triệu người Nhật có thể chết đói vì không đủ lương thực. Thất nghiệp trở thành gánh nặng của xã hội và trở thành lực cản trong quá trình khôi phục kinh tế.
Thế nhưng, việc khôi phục nhanh chóng lại kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh một phần là do các tập đoàn Mỹ khởi xướng. Bởi các tập đoàn Mỹ từng đầu tư vào Nhật Bản trước chiến tranh. Cuối năm 1941, tức là trước khi Mỹ tuyên chiến với Nhật sau vụ Trân Châu Cảng, mức đầu tư của Mỹ chiếm 3/4 tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp Nhật Bản.
Trong đó nổi lên công ty General Electric, một công ty con của Ngân hàng Morgan. General Electric nắm 16% vốn cổ phần của Tokyo-Shibaura Electric, một hãng có liên kết tài chính chặt chẽ với Zaibatsu “Mitsui”. Những khoản đầu tư lớn khác là của Asociated Oil đầu tư vào Mitsubishi Electric Petroleum (dầu khí), của Westinghouse vào Mitsubishi Electric (điện), của Oweno – Libby vào Sumimoto (xe hơi), của American Can vào Mitsui (thực phẩm đóng hộp)...
Sau chiến tranh, các tập đoàn Mỹ được hưởng quyền bồi thường tổng cộng hơn 1 tỷ USD. Các tập đoàn này không những không bỏ qua việc đòi lại số vốn đầu tư của họ tại Nhật Bản mà còn muốn nắm lại hoạt động kinh doanh béo bở ở Nhật Bản. Đây là yếu tố quan trọng mà các ông chủ người Mỹ ra sức thúc giục Washington nhanh chóng thực hiện phục hưng nước Nhật.
Vì thế, Percy Johnson, Chủ tịch của Chemical Bank tuyên bố: “Cái mà nước Nhật cần, không phải là trừng phạt họ vì gây ra cuộc chiến tranh tàn khốc, mà là phục hồi lại tiềm năng kinh tế Nhật Bản càng sớm càng tốt”.
Trong danh sách 325 công ty Nhật Bản phải được tổ chức lại vì có liên quan đến chủ nghĩa phát xít, trên danh sách của Draper-Johnson chỉ có trên 20 công ty là thực hiện điều này. Và không có một ngân hàng nào của Nhật phải “tái cấu trúc”. Để tránh tai tiếng, một số ngân hàng tiến hành đổi tên trong một thời gian. Ngân hàng Mitsubishi tạm thời mang tên Chiyoda, ngân hàng Sumimoto mang tên Fuji…
Thay vì những chủ tập đoàn tài chính-công nghiệp bị thanh trừng bởi tòa án quốc tế sau chiến tranh, thì Tổng hành dinh Bộ Tư lệnh quân đội đồng minh (SCAP) lại “phù phép” cho các ông chủ này thoát tội. Như vậy, các tập đoàn tài phiệt phần lớn vẫn giữ nguyên.
Bên cạnh đó, kế hoạch khôi phục kinh tế Nhật Bản được Mỹ khởi động theo kiểu “kế hoạch Marshall” ở châu Âu khi Chiến tranh Lạnh ngày càng sâu sắc như lời Bộ trưởng Quân lực Mỹ Royall tuyên bố trước công chúng Nhật Bản vào tháng 1/1946. Kế hoạch phục hưng kinh tế Nhật trong giai đoạn này được biết dưới tên Dodge, dưới sự hướng dẫn của Joseph Dodge, Chủ tịch Ngân hàng Detroit.
Ông này đã đến Nhật Bản dưới cương vị bộ trưởng vào tháng 2/1949 để làm cố vấn tài chính cho Douglas MacArthur, Tư lệnh tối cao các lực lượng Đồng minh. Và do đó, Chính phủ Mỹ đã cho Nhật Bản vay những số vốn lớn để phục hưng nền kinh tế.
Bước sang thập niên 1950, khi Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, hệ thống tổ hợp tài chính - ngân hàng - công nghiệp Nhật Bản ra sức thu lợi nhuận bởi những đơn đặt hàng béo bở đã được người Mỹ dành cho. Nhật Bản trở thành khu vực hậu cần chính cho Mỹ vì nó nằm sát ngay lò lửa chiến tranh Triều Tiên. Với lợi ích to lớn như vậy, Thủ tướng Nhật Bản Yoshida gọi cuộc chiến này là “quà tặng của thần linh” cho nước Nhật.
Năm 1951 với việc ký hiệp “Hòa ước San Francisco”, Nhật Bản được Mỹ bảo trợ trong khuôn khổ Hiệp ước an ninh Mỹ – Nhật. Nhờ đó, Nhật Bản tập trung vào phát triển kinh tế trong khi các cường quốc khác lo chạy đua về mặt vũ trang và bị sa lầy trong các cuộc chiến tranh.
“Viện trợ” đi đôi với “đầu tư”
Hiến pháp mới của Nhật Bản năm 1946 coi trong người phụ nữ hơn. Sau chiến tranh có thêm 26 trường đại học dành riêng cho phụ nữ. Trong Bộ Luật Lao động Nhật Bản đã đưa ra quy định trả lương công bằng cho phụ nữ. Nhờ thế mà một nửa sức lao động sản xuất của xã hội được giải phóng, tạo đà cho sự phát triển kinh tế.
Hiến pháp mới của Nhật Bản năm 1946 coi trọng người phụ nữ hơn, biến họ thành lực lượng sản xuất của xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển |
Những khối tài sản được chôn giấu trước và trong Thế chiến II cũng được Nhật Bản sử dụng để khôi phục và phát triển kinh tế.
Tháng 12/1952, lần đầu tiên Nhật Bản đã chính thức tuyên bố chính sách của họ ở Đông Nam Á mang đậm màu sắc kinh tế. Thủ tướng Nhật Bản Shigeru Yoshida đã nói “nhằm thúc đẩy mậu dịch, chính phủ sẽ thực hiện ngoại giao kinh tế… ký kết các hiệp ước thương mại, mở rộng và phát triển các cơ hội buôn bán, củng cố các ngành công nghiệp xuất khẩu”.
Dưới vai trò trung gian của Mỹ, từ thập niên 1950, Nhật Bản bắt đầu tiến hành xâm nhập thị trường Đông Á thông qua những khoản viện trợ “bồi thường chiến tranh”. Các khoản “bồi thường” này bắt đầu tăng mạnh vào những thập niên 1960, 1970.
Các nền kinh tế nhận được đầu tư của Tokyo ra sức phát triển kinh tế theo mô hình “đàn nhạn bay” với Nhật Bản là nước “đầu đàn”. “Viện trợ” đi đôi với “đầu tư” tại các thị trường hấp dẫn khiến kinh tế Nhật Bản tăng vọt.
Nhờ đó, chỉ trong vòng 15 năm (1958-1973), Nhật Bản lần lượt vượt qua Pháp, Anh, Đức vươn lên đứng thứ hai thế giới tư bản chủ nghĩa (sau Mỹ) về sức mạnh kinh tế. Nếu năm 1950, Tổng sản phẩm quốc dân của Nhật Bản mới đạt 24 tỷ USD, nhỏ hơn bất kỳ một nước phương Tây nào và chỉ bằng vài phần trăm so với Mỹ, thì đến năm 1973, Tổng sản phẩm quốc dân của Nhật Bản đạt khoảng 360 tỷ USD, chỉ thua Mỹ.
Giai đoạn này tốc độ tăng trưởng của kinh tế Nhật Bản đạt mức trung bình trên 10% (so với thời kỳ sau chiến tranh là 6%).
Nếu thập niên 1950, những sản phẩm điện tử như máy ảnh, sợi quang, các thiết bị bán dẫn không thể cạnh tranh với Mỹ và Tây Âu, thì đến thập niên 1970 các sản phẩm điện tử này đã thống trị thị trường thế giới. Các hãng xe hơi, xe máy trở thành đối thủ khó chịu của Mỹ và Tây Âu, trong khi công nghiệp đóng tàu của Nhật Bản đứng đầu thế giới. Các lĩnh vực như hóa chất, vận tải, luyện thép cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Nguyễn Văn Toàn/Vietnamnet