Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng (tên khai sinh là Huỳnh Hanh), sinh ngày 1-10-1876, tại làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang Thượng, huyện Hà Đông, phủ Thăng Bình (nay là thôn Thạnh Bình, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam). Những năm tháng đi học, Huỳnh Thúc Kháng vốn nổi tiếng thông minh, học giỏi và sớm đạt giải cao trong các kỳ thi, là một người nổi tiếng của xứ Quảng thời ấy. Là người không tham quyền chức, cho nên sau khi đỗ tiến sĩ, ông không ra làm quan mà đi dạy học, tìm đọc nhiều sách báo có nội dung tư tưởng mới, nuôi ý chí canh tân đất nước.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được thành lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch ra mắt quốc dân (3-11-1946), Bộ trưởng Huỳnh Thúc Kháng (người bên phải, hàng đầu tiên).Ảnh tư liệu
Một lòng đi theo cách mạng
Để có thêm cơ sở thực tiễn cho hoạt động Duy Tân, năm 1905, Huỳnh Thúc Kháng cùng với Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp đi tìm hiểu tình hình một số tỉnh phía nam, gặp gỡ các nhân sĩ, trí thức, tích cực tuyên truyền, vận động Duy Tân, chuẩn bị các cơ sở cần thiết để thành lập Công ty Liên Thành và Trường Dục Thanh; vận động, thiết lập cơ sở kinh doanh lấy tên “Thương học công ty” với nhiều chi nhánh để liên lạc những người yêu nước và tạo nguồn tài chính ủng hộ phong trào Đông du của Phan Bội Châu.
Vì thiếu kinh nghiệm tổ chức, công ty thất bại, Huỳnh Thúc Kháng chuyển sang chăm lo các lớp học và tham gia giảng dạy chính trị, văn hóa, khuấy động tinh thần Duy Tân… Đồng thời, vận động nhân dân thay đổi lối sống, mặc âu phục, cắt tóc ngắn, cùng các thân sĩ chung sức lập các hội buôn, hội nông, hội trồng quế, xây trường học, thư viện... Khi Phan Châu Trinh ra Hà Nội, Trần Quý Cáp vào Khánh Hòa, một mình Huỳnh Thúc Kháng lãnh đạo phong trào Duy Tân trong tỉnh Quảng Nam, đồng thời đi nhiều nơi diễn thuyết, tuyên truyền, cổ động phong trào Duy Tân.
Tháng 2-1908, thực dân Pháp đàn áp phong trào Duy Tân và bắt Huỳnh Thúc Kháng. Đến tháng 8, ông bị đày ra Côn Đảo và đến năm 1921 mới được trả tự do nhưng bị quản thúc tại gia (ở làng Thạnh Bình). Khi ra khỏi ngục tù, thực dân Pháp và chế độ phong kiến Nam triều biết tài năng, đức độ, uy tín của Huỳnh Thúc Kháng nên đã nhiều lần mời ông ra làm quan nhưng đều bị ông từ chối.
Năm 1926, với uy tín của mình, Huỳnh Thúc Kháng trúng cử Nghị viện, rồi được cử làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ. Ông đã sử dụng Viện Dân biểu như một diễn đàn đấu tranh công khai đòi thực dân Pháp phải nới lỏng chính sách cai trị, cải cách dân chủ, dân sinh, thực thi dân quyền, bảo đảm lợi ích dân tộc. Tuy nhiên, Viện Dân biểu Trung Kỳ do thực dân Pháp nặn ra là một tổ chức bù nhìn, chiêu bài phục vụ mục đích của thực dân nên năm 1928, Huỳnh Thúc Kháng đã xin từ chức.
Trong giai đoạn này, thấy rõ được sức mạnh của báo chí trong sự nghiệp cứu nước, cứu dân, Huỳnh Thúc Kháng đã tập trung sáng tác văn thơ, viết báo, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo Tiếng dân, đây là tờ báo đầu tiên xuất bản bằng tiếng Việt ở Trung Kỳ. Trong suốt gần 16 năm tồn tại (1927-1943), Báo Tiếng dân đã góp phần quan trọng tuyên truyền, giáo dục quần chúng tích cực đấu tranh chống thực dân, phong kiến; đòi quyền lợi cho dân, cho nước; làm cho chính quyền thực dân phải dè chừng, không dám ngang ngược ức hiếp dân lành. Đồng thời, có ý nghĩa tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân theo con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc.
Hết lòng vì dân, vì nước
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền về tay nhân dân, nhưng nước ta đứng trước tình thế vô cùng khó khăn đòi hỏi sự chung sức đồng lòng, cống hiến tài năng, trí tuệ của mọi người dân. Trân trọng tài năng, đức độ của cụ Huỳnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời cụ tham gia Chính phủ cách mạng, đảm nhiệm nhiều trọng trách. Từ đó, Huỳnh Thúc Kháng đã có nhiều đóng góp rất quan trọng, góp phần chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua giai đoạn nan nguy.
Với cương vị Bộ trưởng Nội vụ, thành viên Chính phủ, ông đã dồn hết tâm lực và trí tuệ để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; chỉ đạo giải quyết nhiều công việc nội chính, đóng góp quan trọng giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội mới. Ông tham gia ngay từ phiên họp đầu tiên của Chính phủ Liên hiệp kháng chiến để bàn các vấn đề quan trọng, như chương trình nghị sự, nguyên tắc Hội đồng Chính phủ, Tuyên ngôn của Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, chính sách đối với Pháp, quyền hạn của Bộ Nội vụ, các bộ và Ủy ban kháng chiến… Ông là một trong sáu thành viên của Ủy ban Nghiên cứu đặc biệt các vấn đề sẽ đàm phán ở Pa-ri do Hội đồng Chính phủ lập ra trong cuộc họp sáng ngày 22-5-1946…
Với cương vị Quyền Chủ tịch nước trong thời kỳ Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp, ông đã tham gia giải quyết nhiều công việc, góp phần quan trọng điều hành bộ máy nhà nước, chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ, chỉ đạo giải quyết kịp thời những vấn đề về đối nội và đối ngoại theo phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” (lấy cái không thay đổi để đối phó với muôn sự thay đổi). Ông đã ký nhiều sắc lệnh quan trọng, vừa mềm dẻo, linh hoạt nhưng cũng rất cương quyết, xử lý triệt để các lực lượng chống phá cách mạng, đặc biệt là xử lý dứt khoát âm mưu đảo chính của bọn Quốc dân đảng qua vụ án phố Ôn Như Hầu (tháng 7-1946).
Với cương vị là Chủ tịch Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, ông đóng góp cho việc củng cố, phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc, chỉ đạo thực hiện mục đích của Hội là “Đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và các đồng bào yêu nước vô đảng vô phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc, để làm cho nước Việt Nam độc lập - thống nhất - dân chủ - phú cường”. Huỳnh Thúc Kháng rất nghiêm khắc đối với các cá nhân, đảng phái phá hoại chế độ dân chủ cộng hòa, khẳng định việc đoàn kết là rất cần để xây dựng nền dân chủ cộng hòa, nhưng không thể vin vào đoàn kết để làm những điều phi pháp; khuyên mọi đảng phái, các tầng lớp nhân dân đoàn kết chung quanh Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thực hiện trường kỳ kháng chiến.
Khi làm Đặc phái viên Chính phủ tại miền trung, ông tích cực giải thích đường lối toàn quốc kháng chiến và động viên, kêu gọi toàn dân ủng hộ Chính phủ, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt, khi đến công tác ở Quảng Ngãi, ông luôn quan tâm tới mọi tầng lớp nhân dân, nhắn nhủ già, trẻ, gái, trai đồng lòng chung sức phục vụ kháng chiến.
Trước khi qua đời, Huỳnh Thúc Kháng còn gửi đến các đảng phái, nhân sĩ, trí thức và các tầng lớp nhân dân lời hiệu triệu đoàn kết chung quanh Chủ tịch Hồ Chí Minh để thực hiện thắng lợi sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Theo Khoa học và Đời sống