Sau khi được xem bộ não đó trong các hũ thủy tinh, Steven trở về và mô tả chúng trên tờ New Jersey Monthly: "Một miếng có hình dạng như vỏ sò, nhăn nheo màu đất sét nung. Một khúc cỡ nắm tay màu xám nhạt với những đường gân rõ và thẳng hàng, thống nhất như một miếng bọt biển. Và ở một chiếc lọ riêng biệt khác, những sợi màu hồng trắng phồng ra như những sợi chỉ nha khoa. Một chiếc lọ khác lớn hơn, chứa hàng chục khối mờ ảo hình chữ nhật và có kích cỡ tương đương hộp đậu phộng Goldenberg".
Trở lại năm 1955, khi được Hans Albert chấp thuận, Harvey đã đo đạc, chụp bộ não, thậm chí nhờ họa sĩ vẽ lại. Harvey chia bộ não thành 240 khối nhỏ và những lát cắt. Chúng được đưa đến những tổ chức nghiên cứu giải phẫu tốt nhất lúc bấy giờ. Tuy nhiên, họ đều nói rằng bộ não của Einstein không khác biệt so với não bình thường, giống kết quả Harvey từng nhận được khi cân não của Einstein.
Những năm tháng tìm hiểu
"Đó là một may mắn lớn, nhưng thật ra nó giống một lời nguyền hơn. Ông ấy đã mất mọi thứ kể từ ngày có bộ não đó. Thất nghiệp, ly hôn, mất việc ở Princeton. Sau những tranh cãi rằng Harvey tham lam ông không bao giờ còn khả năng xin lại việc ở bệnh viện nữa", một chuyên gia kể lại.
Khi bài báo của Levy được xuất bản năm 1978, Harvey lập tức trở thành tâm điểm. Việc nghiên cứu não Einstein thực sự bắt đầu.
Trong báo cáo năm 1985, chuyên gia Marian Diamond, Đại học California, Mỹ, chỉ ra rằng 4 vật mẫu não chứa thành phần gọi là tế bào thần kinh đệm nhiều hơn so với não thường. Tế bào thần kinh đệm cố định nơ-ron thần kinh, giúp cung cấp nhiều oxy và dinh dưỡng hơn. Diamond từng chỉ ra rằng môi trường kích thích có thể làm gia tăng số lượng tế bào này.
Năm 1996, chuyên gia Britt Anderson tại Đại học Alabama, Mỹ, công bố một nghiên cứu về vỏ não trước của Einstein. Ông phát hiện rằng số lượng nơ-ron không khác biệt so với với não bình thường, nhưng chúng được xếp gần nhau hơn, do đó xử lý thông tin nhanh chóng hơn.
Ba năm sau đó, Sandra Witelson của Đại học McMaster, Canada, nói rằng tiểu thùy đỉnh dưới, phần não liên quan đến nhận thức không gian và tính toán, rộng hơn và tích hợp tốt hơn so với bình thường. Witelson suy đoán hình dạng này của bộ não liên quan đến lối suy nghĩ của Einstein, trong đó "từ ngữ không có vai trò quan trọng".
Nhà nhân chủng học Dean Falk năm 2012 nhận định điểm nổi bật nhất là não Einstein có thêm một vạch kẻ rộng ở thùy giữa trong não, vốn được dùng để lên kế hoạch và ghi nhớ. Con người chúng ta chỉ có 3 vạch này, nhưng Enstein có tới 4. Bà cũng nhận thấy thùy đỉnh não của Einstein bất đối xứng rõ rệt và bộ não cũng có một phần nhô lên trên dải nếp nhăn. Đây được gọi là "dấu hiệu omega", phổ biến ở những nhạc công thuận tay trái. Trên thực tế, Einstein chơi được violin.
Một năm sau, Falk đứng đầu nghiên cứu về corpus callosum - vùng kết nối bán cầu não trái và phải. Các nhà khoa học nhận ra corpus callosum của Einstein dày hơn, tạo sự phối hợp nhịp nhàng hơn giữa hai bán cầu não.
Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra là những đặc điểm trên do bẩm sinh hay được cấu thành từ quá trình làm việc của Einsten. "Dấu hiệu omega" có thể phát triển khi Einstein thường xuyên chơi violin từ nhỏ, nhưng rất khó để hiểu nguyên nhân hình thành các đặc điểm khác.
Sau mỗi công trình khám phá đó, các tờ báo trên thế giới bắt đầu đăng tải thông tin rằng giới khoa học đã khám phá bí mật về thành công của nhà vật lý lỗi lạc. Tuy nhiên theo nhà tâm lý học Terence Hines, tất cả tuyên bố chỉ dừng lại ở mức độ lý thuyết.
Trên thực tế, các nhà khoa học thừa nhận họ không chắc chắn rằng những điểm khác biệt trên bộ não Einstein có quan hệ mật thiết với tài năng của ông hay không. Einstein không chỉ là một thiên tài, ông còn nói được nhiều ngôn ngữ, chơi đàn và mắc chứng tự kỷ.
Năm 1998, Thomas Harvey đã trao 170 phần não cho bác sĩ Elliot Kraus, Đại học Y Trung tâm Princeton. Krauss nói rằng đây là một vinh dự, nhưng cũng là một gánh nặng. Harvey đã thực hiện trách nhiệm đó suốt 40 năm.
Theo VnExpress