Phong trào Phật giáo tại miền Nam Việt Nam từ tháng 5 đến cuối năm 1963 được xem là giọt nước tràn ly, đặc biệt là sự kiện Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 11/6/1963, trực tiếp dẫn tới việc Hoa Kỳ đạo diễn cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm vào ngày 1/11/1963
Cuộc đấu tranh nổ ra
Ngày 6/5/1963, Ngô Đình Diệm ra Công điện số 9195 ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo trong các buổi lễ chính thức của Phật giáo nhằm hạn chế sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo miền Nam.
Trái với ý muốn của gia đình họ Ngô, Phật giáo ngày càng phát triển mạnh, phô trương thanh thế. Lễ Phật đản năm 1963, Phật giáo tổ chức lớn, cờ xí rợp trời. Vì thế, Ngô Đình Thục thúc giục Ngô Đình Diệm ra lệnh hạ cờ Phật giáo vào Lễ Phật Đản năm 1963.
Ngày 8/5/1963, trong cuộc rước Phật từ chùa Diệu Đế lên chùa Tư Đàm để làm lễ chính thức, nhiều khẩu hiệu đấu tranh cho bình đẳng tôn giáo, bảo vệ đạo Phật được trương lên: “Cờ Phật giáo quốc tế không thể bị triệt hạ”, “Phản đối chính sách bất công gian ác”, “Phật giáo nhất trí bảo vệ chánh pháp dù phải hy sinh”, “Yêu cầu Chính phủ thi hành tôn giáo bình đẳng”, “Chúng tôi đã đến lúc bắt buộc tranh đấu cho chủ trương tôn giáo bình đẳng”.
Tối 8/5/1963, Phật tử tập trung tại Đài Phát thanh Huế nghe thuyết pháp về Lễ Phật đản, nhưng chính quyền Ngô Đình Diệm không cho phép phát thanh. Quần chúng Phật tử bất mãn tập trung hàng nghìn người phản đối. Chính quyền Ngô Đình Diệm cho lính đến đàn áp, ném lựu đạn, bắn và cho xe thiếp giáp lao vào đoàn biểu tình. Vụ đàn áp đẫm máu làm hàng trăm người bị thương, 8 người chết.
Cuộc đấu tranh của Phật tử tại Huế ngày 8/5/1963 (Ảnh tư liệu)
Lệnh hạ cờ Phật giáo và vụ tàn sát Phật tử tại Huế đã châm ngòi cho một phong trào đấu tranh rộng lớn, quyết liệt của đồng bào Phật giáo tại miền Nam Việt Nam.
Sau lễ Phật đản, chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ra luận điệu vu cáo Phật giáo “bị cộng sản lợi dụng” để tiếp tục bắt bớ, đàn áp.
Ngày 10/5/1963, Phật giáo ra Tuyên bố 5 điểm:
Một: Yêu cầu Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thu hồi vĩnh viễn công điện triệt hạ cờ Phật giáo
Hai: Yêu cầu chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo
Ba: Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một quy chế đặc biệt như các Hội truyền giáo Thiên Chúa đã ghi trong dụ số 10.
Bốn: Yêu cầu cho tăng ni Phật giáo được tự do truyền và hành đạo.
Năm: Yêu cầu Chính phủ đền bồi xứng đáng cho những người vô tội bị chết oan trong đêm 15/4/1963 (âm lịch) và trừng trị thích đáng kẻ chủ mưu.
Bản Tuyên ngôn gồm đủ các chữ ký của các lãnh tụ cao cấp của Phật giáo:
Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam: Hòa thượng Thích Tịnh Khiết.
Ban trị sự Hội Phật giáo Việt Nam tại miền Trung: Thượng tọa Thích Trí Quang.
Ban Trị sự Hội Tăng già miền Trung: Thượng tọa Thích Mật Nguyện.
Ban Trị sự Giáo hội Tăng già Thừa Thiên: Thượng Tọa Thích Mật Hiển.
Ban Trị sự Tổng hội Phật giáo Thừa Thiên: Thượng tọa Thích Thiện Siêu.
Bản Tuyên ngôn 5 điểm này được gửi tới Ngô Đình Diệm.
Ngày 15/5/1963, một phái đoàn Phật giáo gồm các Thượng tọa Thiện Hòa, Tâm Châu, Lâm Em, Dũng Chí, ông Mai Thọ Truyền, ông Vũ Bảo Vinh, đại diện các giáo phái Nam Bắc tông tiếp kiến Ngô Đình Diệm đòi thi hành bản Tuyên ngôn. Ngô Đình Diệm từ chối và đổ mọi tội lỗi lên Việt cộng. Các giáo phái họp báo tại chùa Xá Lợi và công bố Bản Tuyên ngôn 5 điểm, tố cáo chính sách đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm với dư luận trong nước và quốc tế. Đồng thời, giới Phật giáo ra phụ đính 3 điểm nêu rõ: Phật giáo không chủ trương lật đổ chính quyền, không tranh giành ảnh hưởng với các tôn giáo khác, không tranh giành quyền lực chính trị mà chỉ đòi thực thi 5 nguyện vọng.
Sau sự kiện ngày 8/5/1963, ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra Tuyên bố ủng hộ yêu sách 5 điểm của Phật giáo. Sư Thiện Hào, Hội trưởng Hội Lục Hòa Phật tử, gửi điện cho Ban Thư ký Thường trực Hội Phật giáo thế giới tố cáo nhà cầm quyền đàn áp Phật tử nhân Lễ Phật đản, kêu gọi Phật giáo thế giới lên tiếng đòi chính quyền Ngô Đình Diệm chấm dứt đàn áp Phật giáo.
Ngày 30/5/1963, sáu tập đoàn Phật giáo Việt Nam tuyệt thực 48 giờ. Cùng ngày, Tổng hội sinh viên Phật tử Huế gửi thư cho sinh viên toàn quốc kêu gọi ủng hộ Phật giáo. Họ gửi lên Ngô Đình Diệm một bản kiến nghị 4 điểm yêu cầu thực thi 5 nguyện vọng của Phật giáo.
Từ ngày 30/5 đến 4/6/1963, Ngô Đình Cẩn cho lính bao vây và tiến công các chùa Từ Đàm, Báo Quốc, Linh Quang, làm 142 người bị thương.
Tuy nhiên, trước làn són đấu tranh mạnh mẽ của Phật giáo, Ngô Đình Diệm có bước nhân nhượng, đề nghị lập Ủy ban liên bộ để hòa đàm với Phật giáo. Ngày 4/6/1963, Phật giáo lập Ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo để thương lượng với chính quyền Ngô Đình Diệm. Song trên thực tế, các cuộc đàn áp , bắt bớ Phật tử vẫn tiếp diễn với tội danh chủ yếu là chụp mũ “theo Việt cộng”. Vụ đàn áp ngày 8/5/1963, chính quyền đổ cho “cộng sản liệng chất nổ”.
Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu
Trước tình hình chính quyền miền Nam gia tăng đàn áp cuộc đấu tranh của đồng bào theo đạo Phật, ngày 11/6/1963, Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn đòi hỏi chính quyền Ngô Đình Diệm chấm dứt đàn áp Phật giáo, giải tỏa các chùa ở Huế và Sài Gòn, giải quyết các nguyện vọng của Phật giáo. Sự kiện gây ra sự xúc động dư luận trong và ngoài nước.
Nghe tin Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, mỗi ngày, có hàng vạn người kéo đến chùa Xá Lợi, số 89 Bà Huyện Thanh Quan để chiêm bái nhục thân của ông cho dù sự kiểm soát của chính quyền Ngô Đình Diệm rất gắt gao.
Ông Trần Văn Giàu cho rằng vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức đã khuấy động Phật giáo và quần chúng thành thị đến mức cao độ. Học giả Filliozat viết trên tạp chi Journal Atique 1963 fas 1 Paris: “Một hành động như thế do một nhà sư Việt Nam thành tựu tại Sài Gòn vừa mới làm cho người ta kinh ngạc và xúc động”[1].
Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 11/6/1963 (Ảnh Malcolm W. Browne)Trước khi tự thiêu, Thích Quảng Đức để lại bài thơ sau:
“Đệ tử hôm nay tự đốt mình
Làm đèn soi sáng nẻo vô minh
Khói thơm cảnh tỉnh bao người ác
Tro trắng phẳng san hố bất bình
Thân cháy nát tan ra tro trắng
Thần thông nương tựa giúp sinh linh
Hỡi ai ảo mộng còn đang mộng
Hãy gấp tỉnh đi kẻo giật mình”.
“Đây là lời kêu gọi cuối cùng của một nhà sư bình dân suốt đời khổ hạnh, lăn lộn trong nhân dân lao động, san sẻ nỗi thống khổ của cả một dân tộc đang quằn quại trong bùn và máu để mở ra không khí tự do mà đòi quyền sống”[2].
Ông Trần Bạch Đằng viết: “Đây là thời kỳ cái tinh túy của đạo Phật được phát huy, được luân lý dân tộc chấp nhận. Đó là hình ảnh Thích Quảng Đức tự thiêu, một kỳ công không bao giờ có được, là hun đúc của lịch sử, là tinh hoa của Phật giáo Việt Nam tầm cỡ thế giới” [3].
Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tổ chức lễ truy điệu Hòa thượng Thích Quảng Đức, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đọc điếu văn, các vị đại diện các tôn giáo trong Mặt trận ra tuyên bố chung, cực lực lên án chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp tôn giáo và kêu gọi lương tri loài người hành động ngăn chặn tội ác của chính quyền Sài Gòn.
Tại miền Bắc, các tầng lớp nhân dân tổ chức hàng trăm cuộc mít tinh, biểu tình lên án chính quyền Sài Gòn đàn áp Phật giáo, đòi thỏa mãn yêu sách 5 điểm của Phật giáo. Riêng tại Hà Nội, hơn 80.000 lượt người xuống đường tuần hành phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo.
Dư luận thế giới đều lên tiếng. Báo chí khắp thế giới đăng tải và bình luận về tình hình đấu tranh của Phật giáo miền Nam. Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Australia, Trung Quốc, Bỉ, Ấn Độ, Nhật Bản, Myanmar, Hồng Kông, Hàn Quốc, Lào…tuy thiên hướng có khác nhau, song đều lên án chính sách đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Các hoạt động như mít tinh cầu siêu, biểu tình ủng hộ Phật giáo Việt Nam diễn ra ở nhiều nước.
Ngày 7/6/1963, Liên đoàn thanh niên dân chủ thế giới lên tiếng phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm khủng bố Phật tử, đàn áp dã man học sinh, sinh viên.
Ngày 11/6/1963, Chính phủ Cao Miên tuyên bố cắt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Cộng hòa. Các quốc gia Phật giáo đều yêu cầu Chính phủ phản đối và cắt quan hệ ngoại giao với chính quyền Ngô Đình Diệm và ủng hộ Phật giáo Việt Nam. Nhiều nước đề nghị đưa vấn đề này ra trước Liên hiệp quốc. Báo NewYork Heral Tribune ngày 21/7/1963 viết: “Thượng tọa Thích Quảng Đức, một vị tu sĩ Phật giáo đã biến tấm áo cà sa vàng của mình thành một giàn lửa không phải là một người duy nhất có thể tự đốt mình. Tổng thống Ngô Đình Diệm tại miền Nam Việt Nam cũng đang làm một việc rất hay là ông đang tự đốt hết nền tảng của chế độ ông”[4].
Phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963 với ngọn lửa Thích Quảng Đức góp phần thổi bùng ngọn lửa đấu tranh chống cường quyền, áp bức tôn giáo, đẩy chính quyền độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm nhanh đến ngày tàn của nó.
Bình Nguyễn
[1] Nguyễn Đăng Thục: Phật giáo Việt Nam, Nxb. Mặt Đất, Sài Gòn, 1974, tr. 276.
[2] Nguyễn Đăng Thục: Phật giáo Việt Nam, Nxb. Mặt Đất, Sài Gòn, 1974, tr. 276- 277
[3] Trần Bạch Đăng: Mấy vấn đề về nghiên cứu Phật giáo trong tư tưởng dân tộc trong cuốn Mấy vấn đề về Phật giáo và tư tưởng Việt Nam, Nxb. khoa học xã hội, Hà Nội, 1986.
[4] Quốc Oai: Phật giáo tranh đấu, Nxb. Tân Sanh, Sài Gòn, 1964.