Ngay sau khi đất nước thống nhất, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng về ngoại giao để hội nhập khu vực và thế giới. Cùng với cuộc vận động ngoại giao gia nhập Liên hiệp quốc, một tổ chức toàn cầu, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là tổ chức chúng ta hướng tới để tìm kiếm môi trường hòa bình và phát triển trong khu vực
1. Đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, cùng với những sự thay đổi lớn trên thế giới, tình hình khu vực và trong nước có nhiều chuyển biến.
Tháng 10/1991, Hiệp định Paris về hoà bình ở Campuchia được ký kết. Do đó, những bất đồng quan điểm trong việc giải quyết vấn đề Campuchia không còn nữa. Sau khi trật tự thế giới hai cực chấm dứt, Đông Nam Á không còn được các cường quốc kinh tế thế giới đặt ở vị trí ưu tiên như trước. Nga và Mỹ đều giảm sự hiện diện của mình ở khu vực này. Nga tuyên bố rút quân khỏi Cam Ranh (Việt Nam), Mỹ rút lực lượng quân sự ở căn cứ Subic và Clark (Philippine). Tình hình đó tạo ra một “khoảng trống” quyền lực ở vùng Đông Nam Á. Những cố gắng nhằm đẩy mạnh vai trò cả về chính trị, kinh tế quân sự của Trung Quốc, Nhật Bản ở châu Á đã làm tăng mối lo ngại truyền thống trong các nước ASEAN và các nước Đông Nam Á khác về một nguy cơ can thiệp của các nước lớn đối với khu vực. Vì vậy, ASEAN chủ trương tăng cường vị thế của mình, bằng cách nhanh chóng mở rộng ASEAN, lấy việc kết nạp Việt Nam vào ASEAN là hướng ưu tiên, ra sức tạo ra thế cân bằng chiến lược mới ở khu vực bằng cách giữ cho Đông Nam Á hoà bình, trung lập và thịnh vượng, đứng ngoài những quan hệ phức tạp giữa các nước lớn.
Trong nước, thực hiện đường lối đổi mới, định hướng của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng, trong 5 năm (1991-1995) nhịp độ tăng bình quân hằng năm về tổng sản phẩm trong nước đạt 8,2%, công nghiệp tăng bình quân 13,3%, nông nghiệp tăng bình quân 4,5%, kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản năm 1995 gấp 3 lần năm 1990. Lạm phát được kiềm chế năm 1986 là 774,7% xuống còn 67,4% năm 1991, còn 12,7% năm 1995. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Trong 5 năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 17 tỷ USD, tổng kim ngạch nhập khẩu trên 21 tỷ USD, quan hệ mậu dịch đã mở rộng trên 100 nước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh trong 5 năm, bình quân hàng năm là 50%. Đến cuối 1995, tổng số vốn đăng ký các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 19 tỷ USD[1].
Trước tình hình đó, hoạt động ngoại giao của Việt Nam được triển khai mạnh mẽ và thu được nhiều kết quả quan trong, đặc biệt là dấu mốc năm 1995 với những sự kiện: Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ, ký hiệp định hợp tác với Liên minh châu Âu, gia nhập ASEAN.
2. Trong lịch sử, từ khi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) chính thức được thành lập (8/8/1967), cũng vào thời điểm này, cuộc chiến tranh ở Việt Nam do Mỹ tiến hành ngày càng ác liệt và bị quốc tế hóa, lôi kéo sự tham gia của một số nước ASEAN. Do vậy, quan hệ Việt Nam – ASEAN bị chi phối nặng nề bởi tư duy thời chiến tranh lạnh.
Ngày 27/11/1971, các nước ASEAN đưa ra Tuyên bố thành lập Khu vực hòa bình, tự do và trung lập ở Đông Nam Á (ZOPFAN), đánh dấu sự thay đổi trong thái độ của các nước ASEAN đối với cuộc chiến tranh ở Việt Nam, manh nha ý tưởng tiến tới một sự hòa giải ở khu vực.
Từ năm 1972, một số nước ASEAN như Philippine, Malaysia và Singapore đã bắt đầu thăm dò khả năng phát triển quan hệ với Việt Nam. Riêng Inđônêxia là nước duy nhất trong số các nước sáng lập ASEAN đã có quan hệ ngoại giao chính thức đối với Việt Nam từ năm 1964 và nâng cấp quan hệ lên hàm đại sứ năm 1973. Tuy nhiên, quan hệ giữa hai bên vẫn chưa có chuyển biến đáng kể.
Từ sau khi ký Hiệp định Paris năm 1973 về Việt Nam tới năm 1976, xu thế hòa bình, tự do và trung lập ở khu vực phát triển mạnh, cán cân lực lượng ở khu vực có những chuyển biến sâu sắc. Ngày 15/2/1973, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN kêu gọi chương trình viện trợ kinh tế cho các nước Đông Dương và thành lập Ủy ban phối hợp các nước ASEAN về việc tái thiết và khôi phục lại các nước Đông Dương. Đến tháng 3/1973, Philippine và Thái Lan rút hết quân khỏi Việt Nam. Tháng 7/1974, Thái Lan thỏa thuận xong việc Mỹ hạn chế sử dụng các căn cứ quân sự ở Thái Lan chống lại các nước Đông Dương.
Về phía mình, Việt Nam bắt đầu tích cực triển khai chính sách khu vực, mở rộng quan hệ song phương với các nước thành viên ASEAN. Việt Nam lập quan hệ ngoại giao với Malaysia tháng 30/3/1973, với Singapore tháng 01/8/1973.
Ngày 5/7/1976, Việt Nam đưa ra chính sách 4 điểm đối với khu vực, khẳng định mong muốn mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước Đông Nam Á, dựa trên các nguyên tắc cơ bản như tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, cùng tồn tại hòa bình, không để lãnh thổ của mình cho nước ngoài sử dụng hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của bất cứ nước nào, giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, phát triển hợp tác khu vực. Chính sách 4 điểm đã có tác động tích cực đến tình hình khu vực và quan hệ Việt Nam với các nước ASEAN. Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với Philipine (12/7/1976), với Thái Lan (06/8/1976). Như vậy, đến tháng 8/1976, Việt Nam có quan hệ ngoại giao đầy đủ với tất cả các nước thành viên ASEAN.
Lễ kết nạp Việt Nam vào ASEAN năm 1995 (Ảnh tư liệu TTXVN)
Từ năm 1979, do xuất hiện “Vấn đề Campuchia”, quan hệ giữa ASEAN với Việt Nam lại chuyển sang giai đoạn đối đầu. Quan hệ song phương với từng nước thành viên ASEAN ở mức rất thấp. Trong khi kiên trì mục tiêu giúp đỡ nhân dân Campuchia, kiên quyết bảo vệ những thành quả của cách mạng Campuchia, Việt Nam vẫn cố gắng tìm những biện pháp hòa giải giữa hai bên. Những hành động thiện chí của Việt Nam khi đó chưa được các nước ASEAN đáp ứng một cách tích cực. Không khí căng thẳng vẫn bao trùm khu vực Đông Nam Á.
Trước những khó khăn, thách thức to lớn, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (12/1986) nêu rõ: “Chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hoà bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác"[2].
Tại Hội nghị AMM, tháng 2/1987, các nước ASEAN đã đồng ý cử Indonesia làm đại diện đối thoại với các nước Đông Dương. Tháng 7/1987 diễn ra cuộc đối thoại đầu tiên giữa Việt Nam và Indonesia tại Thành phố Hồ Chí Minh, mở đầu quá trình đối thoại nhằm giải quyết vấn đề Campuchia. Sự kiện này cũng có ý nghĩa là Việt Nam coi ASEAN như một tổ chức, một bên đối thoại, điều mà trước đây chưa có được. Quan hệ Việt Nam – ASEAN được cải thiện, Hội nghị không chính thức chung (Joint informal meeting) JIM 1 (7/1988), JIM 2 (2/1989) được tổ chức. Tại Hội nghị JIM 2 (2/1989), Việt Nam và Lào tuyên bố sẵn sàng tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (Hiệp ước Bali 1976) của ASEAN.
Tháng 9/1990, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Mai phát biểu tại Hội đồng đối ngoại Mỹ tại New York khẳng định lại: Việt Nam chấp nhận tuyên bố Bali và sẵn sàng gia nhập ASEAN.
Ngày 16/9/1991, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam chính thức gửi thư cho các ngoại trưởng các nước ASEAN xin gia nhập Hiệp ước Bali.
Ngày 22/7/1992, Việt Nam chính thức tham gia Hiệp ước Bali và trở thành quan sát viên của ASEAN[3] tại Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN lần thứ 25 ở Manila (Philippin). Từ đây, Việt Nam tham gia từng bước vào một số cơ chế và chương trình hợp tác của ASEAN với tư cách quan sát viên.
Trong chuyến đi thăm chính thức Singapore, Tổng Bí thư Đỗ Mười trong bài phát biểu tại buổi chiêu đãi tiếp tục khẳng định: “Chúng tôi coi trọng việc mở rộng quan hệ với các nước láng giềng… rất coi trọng sự hợp tác nhiều mặt với từng nước ASEAN và tổ chức ASEAN nói chung, sẵn sàng gia nhập tổ chức ASEAN vào thời gian thích hợp”[4].
Trong chuyến đi thăm chính thức Vương quốc Thái Lan tháng 10/1993 (Thái Lan đang giữ trọng trách là Chủ tịch Uỷ ban Thường trực ASEAN), Tổng Bí thư Đỗ Mười tiếp tục khẳng định: “Việt Nam chủ trương tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với từng nước láng giềng cũng như với Hiệp hội các nước Đông Nam Á với tư cách là một tổ chức khu vực; sẵn sàng gia nhập ASEAN vào thời gian thích hợp”[5].
Đến đầu năm 1994, khi Việt Nam làm quan sát viên mới được hơn 1 năm, Tổng thư ký ASEAN thông báo: Lãnh đạo các nước ASEAN khi thảo luận về củng cố và mở rộng Hiệp hội đã nhất trí rằng nếu Việt Nam có nguyện vọng gia nhập sớm thì nên tổ chức lễ kết nạp ngay, nếu không kịp năm nay thì sang năm, không câu nệ quy định như trước đây về thời gian làm quan sát viên[6]
Tháng 9/1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký quyết định thành lập Vụ ASEAN (Bộ Ngoại giao) để phối hợp hoạt động giữa Việt Nam với ASEAN.
Như vậy, với những phát triển nhanh chóng và thuận lợi trong quan hệ Việt Nam - ASEAN, Việt Nam đã chủ động, tích cực chuẩn bị để gia nhập ASEAN.
3. Ngày 17/10/1994, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã gửi thư cho Ngoại trưởng Bruney, Chủ tịch đương nhiệm Uỷ ban Thường trực ASEAN (ASC) chính thức đặt vấn đề Việt Nam xin gia nhập ASEAN. Tháng 2/1995, các nước ASEAN nhất trí sẽ tổ chức kết nạp Việt Nam vào ASEAN trước phiên họp của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN lần thứ 28 tại Bruney. Ngày 28/7/1995 tại Bruney, lễ kết nạp Việt Nam vào ASEAN được tổ chức.
Sự kiện này chấm dứt một thời gian dài khu vực Đông Nam Á bị chia thành hai trận tuyến đối địch nhau. Việc gia nhập ASEAN góp phần quan trọng vào việc củng cố xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác khu vực, tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng kinh tế và bảo vệ đất nước, cải thiện một cách cơ bản và thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ song phương giữa Việt Nam với các nước ASEAN. Tham gia ASEAN, Việt Nam đã phá được thế bao vây, cấm vận, cô lập đối với nước ta, mở cửa ra với thế giới bên ngoài, góp phần chuẩn bị và tạo thuận lợi cho Việt Nam tham gia hội nhập khu vực và quốc tế, tích luỹ thêm kinh nghiệm, chuẩn bị cho việc tham gia có hiệu quả các cơ chế hợp tác rộng lớn hơn.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 36
ngày 26/6/2020 (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)
4. Cho đến nay, ASSEAN tổ chức 37 hội nghị cấp cao. Từ khi trở thành thành viên của ASEAN, Việt Nam tổ chức 5 hội nghị cấp cao ASEAN là: Hội nghị cấp cao ASEAN 6 (tháng 12/1998) trong bối cảnh các nước ở khu vực đang chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực; Hội nghị cấp cao ASEAN 16, 17 và các hội nghị liên quan với vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010, trong bối cảnh các nước đang phải đối mặt với khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu. Năm 2020, mặc dù có nhiều dự báo nhưng không ai lường trước được ASEAN sẽ phải đối mặt với một bối cảnh tình hình khó khăn, phức tạp chưa từng có với sự bùng phát của đại dịch COVID-19, song, Việt Nam phát huy tối đa chủ đề “Gắn kết và Chủ động thích ứng” hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ASEAN, tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN 36, 37 và các hội nghị liên quan với hình thức trực tuyến.
Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 25-CT/TW của Ban Bí thư, ngày 8/8/2018 về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Việt Nam phát huy những thành quả quan trọng đã đạt được, tiếp tục thực hiện phương châm chủ động, tích cực và có trách nhiệm trong tham gia hợp tác ASEAN, nỗ lực xây dựng Cộng đồng và liên kết khu vực nhằm thực hiện thành công Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025 và sớm triển khai xây dựng Tầm nhìn sau năm 2025, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.
Nguyễn Mai
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 55, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr. 348
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 442
[3] Theo quy định của ASEAN, phải làm quan sát viên được 5 năm mới được kết nạp làm thành viên chính thức
[4] Trung tâm Thông tin – Thư viện, Học viện Quan hệ quốc tế: Tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại của Việt Nam, quyển V, tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội, 2003, tr. 132
[5] Vì hòa bình, độc lập và phát triển, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994, tr. 147
[6] Ủy ban quốc gia ASEAN 2020, 25 năm Việt Nam tham gia ASEAN qua góc nhìn của người trong cuộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2020, tr.14-15