Thực tế này đòi hỏi các ngân hàng phải có những biện pháp ứng phó kịp thời để kiểm soát nợ xấu và giảm thiểu rủi ro, đảm bảo sự an toàn cho toàn hệ thống tài chính trong bối cảnh nền kinh tế đang đối mặt với nhiều thách thức.
Nợ xấu ghi nhận tăng cao
Việc nợ xấu tăng cao không chỉ diễn ra ở một vài ngân hàng mà là hiện tượng chung của toàn hệ thống. Trong số 29 ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính quý II/2024, có tới 24 ngân hàng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu tăng, với nhiều ngân hàng ghi nhận mức tăng nợ xấu tuyệt đối lên đến 30 - 50% so với cuối năm trước.
Xét về số dư tuyệt đối, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) dẫn đầu với tổng nợ xấu đạt 31.712 tỷ đồng cuối quý II/2024, tăng 11,6% so với cuối năm trước. Tại Ngân hàng TMCP Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), tổng nợ xấu tính đến cuối tháng 6 là 29.274 tỷ đồng, tăng 2% so với đầu năm.
Tương tự, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển (BIDV) và Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) cũng ghi nhận mức tăng đáng kể trong tổng số dư nợ xấu, với BIDV tăng 28% lên thành 28.687 tỷ đồng và VietinBank tăng 48,4% lên thành 24.646 tỷ đồng.
Tuy nhiên đây chưa phải những ngân hàng có tốc độ tăng nợ xấu nhanh nhất trong 6 tháng qua. Xét về tốc độ tăng nợ xấu phải kể tới Ngân hàng TMCP Bắc Á (Bac A Bank) với số dư nợ xấu tăng mạnh đến 65,3% so với thời điểm cuối năm 2023, Ngân hàng TMCP Việt Á (VietABank) tăng 52,3%, Ngân hàng TMCP Lộc Phát (LPBank) tăng 48,6%, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (VietBank) tăng 47,4%...
Ở chiều ngược lại chỉ có Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) và Ngân hàng TMCP Thịnh vượng và Phát triển (PGBank) ghi nhận số dư nợ xấu giảm so với cuối năm 2023. Trong đó, số dư nợ xấu của SHB giảm 2,7% so với đầu năm xuống còn 12.877 tỷ đồng. Nợ xấu của PG Bank giảm 5% so với đầu năm xuống còn 958 tỷ đồng.
Theo báo cáo từ Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống đến cuối tháng 6/2024 đã đạt 795.500 tỷ đồng, tăng 5,77% so với cuối năm 2023, với tỷ lệ nợ xấu ở mức 4,56%, tăng nhẹ so với cuối năm 2023 và gần như gấp đôi so với cuối năm 2022.
Theo các chuyên gia, nợ xấu không chỉ là một chỉ số phản ánh rủi ro tín dụng, mà còn là thước đo cho thấy những khó khăn và rủi ro mà nền kinh tế đang phải đối mặt. Sự gia tăng của nợ xấu trong hệ thống ngân hàng xuất phát từ nhiều nguyên nhân.
Trong đó, nền kinh tế vẫn đang trong giai đoạn phục hồi sau đại dịch COVID-19 và chịu ảnh hưởng của biến động toàn cầu, khiến nhiều doanh nghiệp và cá nhân gặp khó khăn trong việc trả nợ. Thêm nữa, một số khoản nợ xấu còn là kết quả của quá trình thẩm định tín dụng chưa chặt chẽ, khiến khả năng trả nợ của khách hàng bị đánh giá thấp.
Dự báo nợ xấu sẽ tiếp tục gia tăng trong bối cảnh nền kinh tế đang đối mặt với nhiều rủi ro và thách thức, ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Phân tích của Công ty CP Chứng khoán Yuanta Việt Nam cho rằng, tỷ lệ nợ xấu nội bảng hiện nay là 5%, và nếu bao gồm cả nợ tiềm ẩn và nợ bán cho VAMC, tỷ lệ này có thể lên đến 6,9%.
"Tuy nhiên, với thanh khoản hiện tại của hệ thống, nền kinh tế trong nước dần phục hồi, thì áp lực nợ xấu vẫn chưa quá đáng ngại", ông Minh đánh giá.
Bên cạnh đó, theo Công ty CP Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), nợ xấu nội bảng có xu hướng tăng thêm khoảng 75,9 nghìn tỷ đồng so với cuối năm 2023, trong khi nợ nội bảng, tiềm ẩn và cơ cấu lại tăng thêm khoảng 30,7 nghìn tỷ đồng.
Đặc biệt, nợ cơ cấu lại thời hạn và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 06/2024/TT-NHNN và Thông tư số 02/2023/TT-NHNN tăng khá mạnh, cho thấy rằng nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn trong việc trả nợ và cần sự hỗ trợ từ các chính sách cơ cấu lại nợ.
Kịp thời kiểm soát nợ xấu
Việc gia tăng nợ xấu không chỉ ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng mà còn làm tăng rủi ro tín dụng, đòi hỏi các ngân hàng phải có những biện pháp ứng phó kịp thời và hiệu quả để kiểm soát nợ xấu, bảo đảm sự ổn định của hệ thống tài chính.
Trước áp lực nợ xấu gia tăng, nhiều ngân hàng đã tăng cường trích lập dự phòng rủi ro để bảo vệ tài chính của mình. Đây là một biện pháp quan trọng giúp các ngân hàng giảm thiểu rủi ro tín dụng và đối phó với các khoản nợ khó đòi.
Theo báo cáo tài chính quý II/2024, VietinBank đã tăng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng lên 7.817 tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ năm trước, dù lợi nhuận trước thuế chỉ đạt 6.750 tỷ đồng. Tương tự, BIDV cũng trích lập 5.358 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, tăng 36% so với cùng kỳ, trong khi lợi nhuận trước thuế đạt gần 15.549 tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm, tăng 12%.
Ngoài việc tăng cường dự phòng rủi ro, Ngân hàng Nhà nước cũng đã chỉ đạo các ngân hàng triển khai các biện pháp cơ cấu lại nợ và xử lý nợ xấu theo chương trình giai đoạn 2021-2025. Điều này bao gồm việc tiếp tục kiểm soát và hạn chế nợ xấu mới phát sinh, nâng cao chất lượng tín dụng và giám sát chặt chẽ các hoạt động cấp tín dụng, tình hình xử lý nợ xấu. Ngân hàng Nhà nước cũng đã tổ chức các buổi họp báo để công khai, minh bạch vấn đề nợ xấu, nhấn mạnh trách nhiệm chung của các bên trong việc xử lý nợ xấu, không chỉ của các ngân hàng mà còn của khách hàng.
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú khẳng định: Nợ xấu không chỉ là kết quả của quá trình hoạt động tín dụng mà còn là hệ quả của những khó khăn chung của nền kinh tế. Các tổ chức tín dụng cần phải phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước để xử lý nợ xấu một cách hiệu quả, đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm của khách hàng trong việc trả nợ.
Sự gia tăng của nợ xấu là một thách thức lớn đối với ngành ngân hàng Việt Nam, đòi hỏi các ngân hàng phải có chiến lược quản lý rủi ro chặt chẽ và hiệu quả. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội để các ngân hàng tái cơ cấu, cải thiện chất lượng tín dụng, và tăng cường sự ổn định tài chính.
Báo cáo của bộ phận phân tích Công ty Cổ phần Chứng khoán MB (MBS) dự báo các ngân hàng có chất lượng tài sản vững chắc đã được kiểm chứng từ giai đoạn COVID-19 đến nay như Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), Ngân hàng TMCP Ngoại thương (Vietcombank), Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank)… sẽ dễ dàng vượt qua áp lực trích lập dự phòng trong các quý tiếp theo khi đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng.
Nguồn TTXVN