Lễ rước kiệu của các xã, phường, thị trấn vùng ven về Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Đền Hùng. Ảnh: Trung Kiên/TTXVN.
Những ngày này, người Việt Nam trong nước cũng như đông đảo kiều bào ta ở nước ngoài đều hướng về ngày Giỗ tổ mùng 10 tháng 3. Đã từ lâu, nòi giống con Lạc cháu Hồng lấy đây là ngày lễ lớn của dân tộc để tưởng nhớ về tổ tiên.
Đặc biệt, từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Đền Hùng và nhắc nhở: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”; tiếp đó đến năm 2001, Nhà nước ta chính thức công bố ngày Giỗ tổ Hùng Vương là ngày quốc lễ (quốc giỗ) thì mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm ngày càng trở nên thiêng liêng hơn bao giờ hết.
Từ xa xưa, lễ hội Đền Hùng đã có vị thế đặc biệt trong tâm thức của người Việt Nam. Bản ngọc phả viết thời Trần, năm 1470 đời vua Lê Thánh Tông và đời vua Lê Kính Tông năm 1601 sao chép đóng dấu kiềm để tại Đền Hùng, nói rằng: "...Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi...".
Như vậy, có thể hiểu từ thời Hậu Lê trở về trước các triều đại đều quản lý Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, làm Giỗ Tổ ngày 10 tháng 3 âm lịch. Bù lại họ được miễn nộp thuế 500 mẫu ruộng, miễn đóng sưu, miễn đi phu đi lính.
Đến đời nhà Nguyễn vào năm Khải Định thứ 2 (1917), Tuần phủ Phú Thọ Lê Trung Ngọc đã trình bộ Lễ định ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm làm ngày Quốc tế (Quốc lễ, Quốc giỗ). Điều này được tấm bia Hùng Vương từ khảo do Tham tri Bùi Ngọc Hoàn, Tuần phủ tỉnh Phú Thọ, lập năm Bảo Đại thứ 15 (1940) cũng đang đặt ở Đền Thượng trên núi Hùng, xác nhận: "Trước đây, ngày Quốc tế lấy vào mùa thu làm định kỳ. Đến năm Khải Định thứ hai (dương lịch là năm 1917), Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc có công văn xin bộ Lễ ấn định ngày mồng Mười tháng Ba hằng năm làm ngày Quốc tế, tức trước ngày giỗ tổ Hùng Vương đời thứ 18 một ngày. Còn ngày giỗ (11 tháng Ba) do dân sở tại làm lễ". Kể từ đây, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10 tháng 3 âm lịch hàng năm được chính thức hóa bằng luật pháp.
Sau cách mạng tháng Tám (1945) Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm tới Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đều về thăm viếng. Kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất là đạo đức "uống nước nhớ nguồn", ngay sau cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh của Chủ Tịch nước số 22/SL - CTN ngày 18 tháng 2 năm 1946 cho công chức nghỉ ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm để tham gia tổ chức các hoạt động Giỗ Tổ Hùng Vương - hướng về cội nguồn dân tộc.
Từ tổ tiên, chúng ta mới khẳng định được bản sắc văn hoá dân tộc, từ đó khẳng định được chủ quyền riêng: Đầu tiên là chủ quyền về văn hóa, sau đó là khẳng định chủ quyền về lãnh thổ, tạo nền tảng để xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh.
Dịch bệnh COVID-19 bớt căng thẳng nên lượng khách đổ về đền Hùng đông hơn năm trước - Ảnh: TTO
Trên bình diện quốc tế, quốc gia nào cũng mong muốn xác lập tổ tiên riêng của mình, bởi chúng ta có tổ tiên riêng thì mới khẳng định được bản sắc văn hoá dân tộc riêng và từ đó chúng ta khẳng định được chủ quyền riêng. Đầu tiên là chủ quyền về văn hóa, sau đó là khẳng định chủ quyền về lãnh thổ. Mà những câu nói khẳng định về chủ quyền văn hóa được nói rất nhiều từ Hịch Tướng Sĩ của Trần Quốc Tuấn, đến Bình Ngô Đại Cáo (Nguyễn Trãi) hay câu nói của Quang Trung khi tiến quân ra ngoài Bắc “Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ!”.
“Cây có cội, suối có nguồn và đất nước chúng ta có tổ tong”. Từ câu chuyện xác lập đó, chúng ta tạo ra tình đoàn kết của dân tộc. Đây cũng là lý do chúng ta mong muốn hồ sơ thờ cúng tín ngưỡng Hùng Vương ở Phú Thọ được UNESCO công nhận như một sự khẳng định bản sắc văn hóa Việt Nam Nam trên bản đồ văn hóa thế giới.
Tất cả những câu chuyện đó đều muốn chứng minh và khẳng định chủ quyền về văn hóa và từ chủ quyền về văn hóa đó là tạo ra sức mạnh đoàn kết, tạo ra sự lan tỏa với tình yêu nước và từ đó chúng ta có thể khẳng định chủ quyền về dân tộc, về lãnh thổ.
Có thể nói, giá trị quan trọng nhất của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là lòng yêu nước và đoàn kết. Đây chính là những giá trị mà chúng ta có thể truyền tải và biến thành sức mạnh dân tộc.
Những giá trị này được đúc kết và tạo nên bản sắc văn hóa của Việt Nam. Dịch COVID-19 vừa qua thêm một lần nữa đã khẳng định những giá trị đó, đã giúp chúng ta vượt qua dịch bệnh, có điều kiện để phát triển kinh tế xã hội./.
Theo Diễn đàn doanh nghiệp