Và cũng chính “chữ Tây” đã giúp người thanh niên Nguyễn Tất Thành nhận ra thực chất của nền văn minh Pháp đối với dân tộc mình, thấu hiểu cái gọi là “tự do, bình đẳng, bác ái” của “mẫu quốc”, những kẻ luôn đề cao độc lập dân tộc mình nhưng lại tự do đi xâm lược áp bức dân tộc khác. Niềm mong mỏi muốn giải phóng đồng bào mình đã tạo động lực cho Người ham tìm hiểu, học hỏi, đặc biệt là học ngoại ngữ trong những hoàn cảnh khó khăn nhất của hành trình bôn ba tìm đường cứu nước.
Học ở mọi lúc, mọi nơi
Trong hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã đến nhiều quốc gia ở châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ Latinh. Phải làm nhiều nghề để kiếm sống, nhưng trước hết, Người luôn có ý thức học hỏi. Người đã tự học, tự nghiên cứu, nhất là học ngôn ngữ mỗi nước mà mình đi qua, sau đó là học nghề. Người đã làm công việc phục vụ trên tàu, học viết báo, nhiếp ảnh, làm bếp và học hỏi rất nhiều về lý luận và thực tiễn cách mạng các nước khác.
Nguyễn Ái Quốc kiên trì tự học, chẳng hạn như cách học viết báo. Sau khi viết xong mỗi bài báo bằng tiếng Pháp, Người đều chép thành hai bản, một bản lưu giữ lại, còn bản kia gửi cho tòa soạn. Từ những bài viết đầu tiên còn ngắn, mắc nhiều lỗi sai, Người đã viết được những bài báo dài kỳ, trong đó có những tác phẩm nổi tiếng trên báo Người cùng khổ. Ngoài ra, Người còn tham gia Hội Nghệ thuật và khoa học và Hội Những người bạn của nghệ thuật. Hằng tuần các hội này tổ chức đi thăm viện bảo tàng, nhà máy, phòng thí nghiệm, xưởng nghệ thuật, nhà hát... Người còn vào cả Hội Du lịch đưa khách đi thăm nước Pháp và những quốc gia lân cận với giá tiền rất rẻ. Nhờ vậy, Người đã đi thăm nhiều nơi ở Pháp, Ý, Thụy Sĩ, Đức và cả Tòa thánh Vatican. Người từng nói với bạn: “Trong những ngày nghỉ, không nên tiêu phí tiền bạc, mất thì giờ ở bãi bể để nhìn những người đàn bà đi tắm, mà nên đi du lịch, học hỏi được nhiều”.
Nguyễn Ái Quốc đã tìm cách tự học và tự rèn luyện đến khi đọc thông viết thạo và nói giỏi một ngoại ngữ mới. Người đã dùng nhiều phương pháp để học nhiều ngoại ngữ khác nhau trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Người yêu thích ngôn ngữ mới và không sợ mắc lỗi khi nói và viết. Người học từng từ vựng bằng cách hỏi chính người bản xứ, kể cả những người lính giải ngũ trên tàu, về các đồ vật xung quanh, ghi tên và nhớ cách phát âm của chúng. Người đã học từng chút một mà không có sách hướng dẫn. Người phải vận dụng kiến thức đã biết, bằng cách thường xuyên sử dụng nó. Học cách ghi nhớ, luyện tập những từ đã học, viết các câu, bài luận làm sao sử dụng nhiều nhất những từ vựng đã biết, ghép từng câu ngắn, câu dài thành đoạn, thành bài văn. Người tập viết báo bằng thứ tiếng mà mình học. Ngoài ra, Người còn học viết truyện ngắn và kịch, trở thành một người giỏi về sử dụng ngôn ngữ Pháp. Người luôn tạo ra cho mình một “môi trường” ngoại ngữ như ghi từ vựng lên những nơi dễ thấy nhất.
Sau này, muốn học tiếng Anh được nhanh và thuận lợi hơn, Người đã sang London để có môi trường tiếng Anh tốt hơn ở Pháp. Lúc sang Đức để đi Liên Xô, Người đã tranh thủ học tiếng Đức. Khi sang Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc cũng đã cố gắng học tiếng Nga. Lúc đầu, Người mới nghe và nói được một số câu thông thường dùng trong đời sống hằng ngày. Sau đó, Người tiếp tục vừa làm, vừa học, tranh thủ mọi thời gian để học, Người đã tiến bộ không ngừng. Trong hồi ký của bác sĩ Anna Xtaxia Vaxilépna có viết: “Nguyễn Ái Quốc nói tiếng Nga thoải mái, tự nhiên như người Nga... Người biết nhiều thứ tiếng và coi tiếng Nga là tiếng mà người cách mạng nào cũng phải biết”. Người có thể nói được nhiều thứ tiếng như vậy chính là nhờ tinh thần tự học, cộng với phương pháp học khoa học. Mỗi khi hoạt động cách mạng ở bất cứ quốc gia nào, Người đều luôn cố gắng để nói được tiếng của quốc gia đó. Đó là tiếng Trung, Pháp, Anh, Nga, Đức, Tây Ban Nha, Thái Lan...
Không học, công việc sẽ gạt mình lại phía sau
Trong bản khai lý lịch tham dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva vào tháng 7 và tháng 8 năm 1935, Bác Hồ với bí danh là Lin đã khai: Biết tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Quảng Đông, tiếng Ý, tiếng Đức. Nhưng trên thực tế, dựa vào những lần Bác đi thăm nước ngoài cũng như những lần đón tiếp các phái đoàn ngoại giao tới Việt Nam, chúng ta được biết Người còn có thể sử dụng thông thạo khá nhiều ngoại ngữ khác như tiếng Thái, tiếng Nga...
Chính sự khổ công luyện tập đã đem đến cho Người vốn ngoại ngữ đặc biệt giàu có. Sự đa dạng về ngôn ngữ đã đem đến nhiều tiện lợi trong suốt hành trình cứu nước và lãnh đạo đất nước của Hồ Chí Minh. Khi sống ở nước ngoài, việc hiểu ngôn ngữ bản xứ như một “phương tiện” để nắm bắt nhanh tình hình, hòa nhập vào xã hội. Có một tờ báo ở Hồng Kông viết: “Sau thắng lợi lừng lẫy ở Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức một buổi chiêu đãi có khá nhiều khách quốc tế đến dự. Nỗi khổ tâm của khách là sự bất đồng ngôn ngữ... Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thân phiên dịch nhiều thứ tiếng. Và cũng chính vì thế, người ta mới có dịp được biết Cụ thông thạo nhiều ngôn ngữ đến thế. Mọi người có mặt hết sức ngạc nhiên vì đây là một nhà chính trị, nhà quân sự miệt mài nơi núi rừng Việt Bắc lại nói lưu loát các thứ tiếng Trung, Anh, Pháp, Nga... như vậy. Người nói trôi chảy tự nhiên và rất chuẩn. Tài ngoại giao của Người khôn khéo và linh hoạt. Trong số các vị lãnh tụ trên thế giới, đây là hiện tượng hiếm có. Chính cuộc đời hoạt động sôi nổi ở nhiều nước đã tạo điều kiện để lãnh tụ Hồ Chí Minh tiếp xúc với nhiều ngoại ngữ. Phải thừa nhận rằng Cụ Hồ Chí Minh là một thiên tài về ngoại ngữ”. Bài báo kết luận: “Quả thật, có thể xếp Hồ Chí Minh vào hàng cự phách trong lĩnh vực ngôn ngữ một cách xứng đáng, đầy tự hào”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người ham học hỏi. Năm 1961, khi về thăm quê, nói chuyện với các cụ già, Bác tâm sự: “Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào tôi cũng phải học. Công việc cứ tiến mãi, ngày càng nhiều, ngày càng mới, không học thì không theo kịp, công việc sẽ gạt mình lại phía sau”. Và Bác nhắc nhở các lãnh đạo xã, huyện đang có mặt: “Một mặt Đảng phải đào tạo, dìu dắt đồng chí trẻ, một mặt đảng viên già phải cố gắng mà học”. Bác vẫn áp dụng cách học ấy cho đến cuối cuộc đời. Tờ báo Diễn đàn Nhân dân Ba Lan đã viết: “Mặc dù tuổi cao, Người không những giữ được hình dáng trẻ trung mà còn giữ được sự trong sáng và trí tuệ minh mẫn của người trai trẻ”.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự học có vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định tạo nên trí tuệ của Người. Trong lý lịch tự khai tại Đảng Cộng sản Pháp cũng như tại một số đại hội, hội nghị của Quốc tế Cộng sản, Bác thường khiêm tốn ghi ở phần trình độ học vấn là: Tự học. Hay nói chuyện tại hội nghị chuyên đề sinh viên quốc tế họp tại Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tâm sự: “Về văn hóa tôi chỉ học hết tiểu học. Về hiểu biết phổ thông: 17 tuổi tôi mới nhìn thấy ngọn đèn điện lần đầu tiên, 20 tuổi mới nghe rađio lần đầu”. Nhưng chúng ta ai cũng biết, Người có một trình độ học vấn rộng lớn, uyên bác mà cả thế giới phải khâm phục và thừa nhận. Hồ Chí Minh đã tự rút kinh nghiệm trong việc học viết của mình: “Viết cũng như mọi việc khác, phải có chí, chớ giấu dốt, nhờ tự phê bình và phê bình mà tiến bộ, quyết tâm thì việc gì, khó mấy cũng làm được”. Người học ngoại ngữ, học viết báo, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin, nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây.
Đó chính là bài học sâu sắc về tấm gương tự học viết văn, viết báo, nhất là tự học ngoại ngữ... của Bác Hồ để tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam nói riêng và sự nghiệp đấu tranh của nhân dân tiến bộ trên thế giới nói chung. Ngày nay, công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những bài học mà Người để lại trong quá trình 30 năm đi tìm đường cứu nước vẫn còn nguyên giá trị, nhất là trong giai đoạn đất nước đang bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế.
Theo Hanoimoi.com.vn